Giữa đồng bằng có một khoảng đất nổi cao lên gọi là gò. Sài Gòn có Gò Vấp, trồng cây Vấp. Cách Mỹ Tho 35 cây số, Gò Công là vùng gò đất có nhiều chim công. Tui không tin kiểu cắt nghĩa tưng lên cho đẹp: gò có ‘công về ngủ’ đâu. Thế đất cao hơi cong nên gọi Gò Cong (Công) đấy thôi.
Tui nhớ chiến hữu La Quốc Tiến (1949-2004), cùng khóa 4/72 SQTB, với bài thơ: “Tôi về Gò Công. Ngày vừa xiêu xiêu khu phố cổ / Chiều đã mốc meo mái ngói âm dương / Dây leo nở hoa ngó xuống sân đình / Tôi soi bóng thấy mặt mình oan khuất / Chợt nghi ngờ cả hồ nước trong xanh / Có phải tôi mang niềm lưu tán / Về đây cũng không giáp mặt mình! / Gò Công ơi! Chuyện cũ tích xưa ngậm mồm con hổ đá / Vẫn phục trước đền chờ ngoạm phiến trăng non.”
Tui nhớ câu ca dao ngày cũ bão lụt năm Thìn, năm 1904. “Ðèn nào cao bằng đèn Châu Ðốc / Gió nào độc bằng gió Gò Công / Thổi trận gió Ðông lạc vợ xa chồng / Nằm đêm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi”. Người muôn năm cũ khóc đến chảy máu tuyến lệ, nước mắt có màu hồng. Vì xưa nay Miền Nam mưa thuận gió hòa mà giờ: “Gò Công xiết mấy hư hao / Trời sanh trời dưỡng biết sao mà phòng”. “Rương xe, thùng bộng, mái lơn / Thuyền chài, cối giã, chạy bôn trên đồng / Xác người, xác thú chập chồng / Sóng dồi rều dập, vun giồng lấp khe”, “Vừa đi vừa ngó các đồng / Trâu heo bò ngựa tràn đồng sình trương / Tử thi xem thấy thảm thương / Thây trôi như củi đào mương tấp vào”.
Vì người chết nhiều quá! “Rủ nhau dập xác cho liền / Gặp đâu chôn đó, chớ hề ai khiêng / Thân chết chôn rồi đã yên / Còn người sống sót gạo tiền đâu ăn?”. Rồi cơn bão làm người thương thất tán: “Gặp đây mới biết em còn. / Hồi năm bão lụt anh khóc mòn con ngươi”. Rồi ông bà mình ráng cùng nhau: “Năm Thìn rủi mắc cơn giông bão. / Dựng lại bằng xưa cũng phước trời”.

Bánh vá Gò Công – nguồn Mia.vn

Năm 1969, tui có quen em Năm, xuất sắc trong vai tì nữ, dân xóm Cao Ðài, Gò Công. Từ Mỹ Tho tui giang hồ vặt xuống thăm. Gò Công có nhiều địa danh tên nghe hay lắm như: Ao Trường Ðua, Cầu Tây Ban Nha. Năm dắt tui vô vườn ‘sơ ri’ (cherry). Trái chín đỏ chét, thấy đẹp nhưng chua lè. Em nói chua có nhiều Vitamin C. Về nhà, Năm trổ tài làm bánh vá đãi tui ăn.
Có người nói cho thêm vài nhúm giá vô bánh, nên tên bánh giá (?!). Bậy nè. Giá đâu phải là cái chánh trong nhưn bánh đâu mà gọi là bánh giá? Vai phụ mà tên nguyên bảng hiệu nghe sao lọt cái lỗ tai? Phải gọi là bánh vá vì nó chiên bằng cái vá (Bắc Kỳ gọi nó là cái muôi) dùng để múc canh, múc cháo.
“Từ khi em đi lấy chồng / Anh ăn bánh vá Chợ Giồng với ai?” Chợ Giồng gần ngã tư Hòa Ðồng, thị trấn Vĩnh Bình trên quốc lộ 50 thuộc Gò Công Tây. Quê ngoại em đó, Năm nói.
Bánh vá Chợ Giồng làm bằng bột gạo, bột năng, bột đậu nành, trứng gà và nước đánh cho mịn để không bị óc trâu (vón cục). Nhưn bánh là gan heo được xắt hột lựu, thịt nạc được bằm nhuyễn, tôm bạc đất phải cắt bỏ râu và rửa sạch, ướp gia vị vừa ăn, thêm giá sống làm bằng đậu xanh. Năm múc một muỗng bột tráng phần đáy của chiếc vá, sau đó cho thịt bằm, gan heo, giá sống vào giữa vá bột, rồi múc thêm một lớp bột phủ lên trên, cuối cùng cho tôm bạc đất và đậu phộng rang lên trên cùng. Nhúng chiếc vá vào chảo dầu đang sôi. Chờ cho bột tách khỏi vá, em từ từ rút chiếc vá ra khỏi chảo dầu. Chỉ còn chiếc bánh nổi lềnh bềnh trong chảo dầu sôi. Em phải để lửa nhỏ, liên tục trở bánh cho chín vàng đều hai mặt mà không bị khét. Khi bánh chín vớt ra, để lên một chiếc vỉ tre trên miệng chảo cho bánh ráo dầu.
Tui nói: “Như vậy bánh vá là chị em bạn dì với bánh cống. Em nào cũng ngon bá chấy! Miệt Cần Thơ, Sóc Trăng, bánh cống ăn mình chỉ cuốn với cải xà lách, rau thơm, chấm nước mắm ớt. Miệt Mỹ Tho, bánh vá cắt ra ăn với bún như ăn bún bì vậy.
Tui hứng lên ‘dê’ sảng: “Nữa về với nhau, lỡ anh thất nghiệp, em ra Chợ Gò Công chiên bánh vá bán nuôi anh nhe. Em ‘ừa’ nghe thương hết sức!
Mới đây có một bạn văn nữ tuốt bên Houston, Texas, Huê Kỳ hít hà nói với tui là: “Dạ ngày xưa ở Ngã Tư Quốc Tế, giấc chừng ba, bốn giờ chiều có bán bánh vá ăn với rau sống, rau thơm chan nước mắm chua ngọt. Chu choa ngon lắm!

Ngã tư Quốc Tế (Đề Thám – Bùi Viện) năm 1968.
Em nói: “Trước năm 1975, ngã tư Bùi Viện và Ðề Thám là Ngã Tư Quốc Tế. Tên đặt vậy vì nơi đây có nhiều ký giả ‘lô can’ (local) và ngoại quốc tụ tập tại các quán café và nhà hàng xung quanh để tán gẫu cũng như bàn về tình hình thế sự trong nước và quốc tế.
Bùi Viện, Phố Tây, là mãi tận sau nầy khi CS vô, lúc em đã bỏ nước ra đi. Ngày ấy, Ngã Tư Quốc Tế Bùi Viện bán đồ ăn không chê được món nào. Quả em bạn văn nầy có tràn đầy tâm hồn ăn uống giống tui.
Một người em sầu mộng khác ở Sydney rầy tui: “Ở nước ngoài mà anh cứ kể món ăn Việt Nam hoài, thèm nhỏ dãi. (Dân Cần Thơ, em xài chữ lai Bắc Kỳ hai nút hơi nhiều nhe. Chớ tui nói thèm chảy nước miếng, vén lên không kịp he!). Em nói: “Tui, dân đèn Ba ngọn, bến Ninh Kiều chỉ biết lấy cải xà lách, cải bẹ xanh, (hậu hơi đăng đắng, ăn mới đã), rau thơm cuốn bánh cống rồi chấm nước mắm.
Tui nói: Hồi xưa đi học ở Sài Gòn, trưa đói bụng, một cái bánh cống cắt làm bốn ăn với bánh ướt! Còn bánh vá bán ngoài chợ Hai Mươi cuối đường Cao Thắng, Sài Gòn thì cắt ra ăn với bún.
Bánh cống, bánh vá là bánh của con nhà nghèo, dân buôn gánh, bán bưng. Bánh xèo mới trèo vô tiệm đường Ðinh Công Tráng Tân Ðịnh.
Quê người, Footscray không có tiệm nào bán hết ráo. Muốn ăn là phải nói với em yêu. Gần 30 năm biền biệt tha hương, khẩu vị đã đổi thay nhưng tình quê bánh vá Năm ơi vẫn ứa nước miếng như xưa!






Bình luận