Xứ Đôi Ma là địa danh xưa, được ghi trong Địa bạ Minh Mạng năm 1836, tọa lạc ở thôn An Thuận, tổng Lộc Thành Thượng, huyện Tân Hòa, phủ Tân An, tỉnh Gia Định, nay thuộc ấp Đôi Ma, xã Kiểng Phước, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.
Địa danh được cấu tạo theo phương thức: Địa danh chỉ vùng (Xứ) + Truyện tích (Đôi Ma).
Theo ghi chép trong Đại Nam nhất Thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, địa danh này gắn liền với truyện tích dân gian như sau: “Tương truyền xưa có người con gái nhà giàu, đến tuổi cài trâm, thầm yêu một thư sinh vì nhà nghèo, nên dù biết rõ mối tình, vẫn chẳng dám mượn ai mai mối ngõ việc hôn nhân. Cô gái tương tư uất hận mà chết. Cha mẹ nàng rất thương tiếc không muốn chôn ngay. Cất lều ở sau vườn cho quàn linh cữu. Gã thư sinh hay tin liền tìm đến thắt cổ chết bên cạnh.
Người ta quàn cả lại cùng một chỗ, âm khí kết tựu dần thành ma quỷ. Sau cha mẹ cô gái đều buồn rầu và mất đi. Đôi xác trẻ không ai chôn cất. Chốn hoang vu, cây cối mọc thành gò hoang, quỷ khí càng thịnh hành. Dân chúng thường khổ sở vì đó, đặt tên là sông (rạch) Đôi Ma. Sau Tây Sơn đốt phá, tai quái mới dứt”.
Trong quyển Gò Công cảnh cũ người xưa, Việt Cúc cho biết cụ thể hơn: “Từ Bến Vựa ngoài, đi vào Vàm Láng, nhờ con rạch Cần Lộc thông lưu qua lại. Khoảng giữa đường, có ngọn rạch nhỏ, chảy thông vào các khe, ruồng trong rừng rồi rẽ ra bải cỏ. Kề bên rạch phía ngoài rừng này, khi Pháp mới đắp con lộ chạy vào Vàm Láng, để khai mở miền rừng nầy. Lộ đắp xong rồi dân chúng về lập cuộc cất nhà cửa ở, trên mười nóc gia, nay gọi là xóm Vịnh Đôi Ma. Đôi Ma, theo lời truyền thuyết là cặp giai nhân tài sắc phận đẹp duyên ưa, sanh trong hai cái gia đình giai cấp tương phản. Một là chàng trai con nhà nghèo, có học thức vào hàng trí giả. Hai là nàng gái, con nhà giàu có dư ăn, đều là người sanh trưởng gần vùng Bến Vựa.
Bởi tánh cố chấp và tự kiêu, khiến đôi uyên ương này không chắp cánh liền cành với nhau được. Cha mẹ nàng chê đàng trai không xứng đáng suôi gia, vì không môn đăng hộ đối. Mặc dầu nhà chàng, đã nhiều lần cậy người trong thân, đến cầu xin cha mẹ nàng, nên khoan hồng dung thứ, cho đôi lứa kết hôn, thì ân đức làm cha mẹ rộng lớn sánh lòng trời biển. Vì đôi lứa đã hẹn bể thề non, nếu đoạn tình, gây ngang trái cuộc nhân duyên này, e sau ắt có hậu quả không tốt.
Nhưng rất tiếc, cha mẹ nàng khư khư, chẳng kể lẽ phải, nhất quyết cho rằng: Cha mẹ có quyền “sở sanh sở định”. Áo mặc không qua khỏi đầu. Con không phép cãi cha, đặt đâu phải ngồi đó. Đây là cái lý luận làm cha, theo lối chuyên chế tam cang/cương, để đàn áp trong gia đình. Cho nên thuở ấy đàn bà con gái là nạn nhân của chế độ này.
Vì trọng nam khinh nữ, con gái sanh nhằm những cái gia đình ấy, chẳng khác gì con vật, hoặc như rều rác. Nghe câu hát này:
Gió đưa gió đẩy / Về rẫy ăn còng / Về sông ăn cá / Về giồng ăn dưa. Thật là cái đời vô định của đàn bà con gái cũng như thế. Hễ gió đưa đến đâu, thì phải trôi theo chiều đến đó, thân phận đã phó mặc rủi may, thì không còn cái thân phận gì đáng kể nữa.
Đến khi cha mẹ nàng nhận gả nàng cho một nhà giàu sang danh giá ở khác làng. Đến lúc làm lễ hỏi (sơ vấn). Nàng cảm thấy cuộc đời của nàng sẽ đen tối, phải sống trong cảnh địa ngục trần gian. Nên nàng bỏ ăn mất ngủ, thầm than thân trách phận, không còn hy vọng gì, trông cha mẹ hồi tâm nghĩ đến nỗi đau khổ của nàng.
Một ngày nọ nàng cùng chàng hẹn nơi hội ngộ, hai đàng gặp nhau, nơi chốn rừng sâu, kề bên ngọn rạch. Xiết nỗi thở than với tình tuyệt vọng, khi gặp gỡ, giữa đôi mắt tràn đầy lệ thảm, đọa đày sanh ly, khó tìm lối thoát, để giữ trọn lời thề nguyện.
Lúc hai người trốn nhà ra đi, thì quyết định không trở lại, trước tình cảnh áo não đoạn trường, không còn thiết gì lưu luyến thấy cảnh trần gian. Đêm đã khuya, tâm tình cạn tỏ, hai người đồng nắm tay nhau, nhảy xuống vịnh nước sâu, nhờ giọt nước giải oan, rửa tình u uất.
Nơi trên vịnh này, cách sau thời gian ngắn, người ta thường thấy có bóng uyên ương, nhởn nhơ kề cập nhau lúc trời trưa đứng bóng, hoặc lúc trời chiều chạng vạng tối, có đôi đom đóm lập lòe trên cành cây, mé rạch trên đây.
Khi người ta trông thấy những vật ấy, họ đều nghi là oan hồn của cặp uyên ương, vẫn còn ẩn hiện nơi đây. Vì thế, họ gọi khúc vịnh nầy là vịnh Đôi Ma.
Đời sau ai nghe đến thảm sử này, đều cảm thương ngậm ngùi, nên có bài thi điếu, bằng Hán văn (không biết tác giả):
Nhân duyên bất nguyện, thệ tuyền đường,
Đồng ẩm Tương giang, thủy đoạn trường.
Cố kiết uyên ương du thủy diện,
U tình thiểm điểm, quýnh tà dương.
Dịch ra quốc văn như sau
Nhân duyên oan trái khó giao hòa,
Đành rửa Tương giang uất hận đa.
Tình đoạn nhóm nhen, hồn lửa đóm,
Uyên ương ẩn hiện vịnh Đôi Ma”.
Tại đây, có rạch Cần Lộc chạy dài đến xã Kiểng Phước, xuyên qua cái vịnh nước chảy rất xiết. Nơi khúc quanh của đoạn rạch Cần Lộc gọi là vịnh Đôi Ma. Hiện tại, vịnh chỉ là một khúc rạch uốn cong, lục bình đã mọc kín cả bề mặt, hai bên con rạch rất ít người sinh sống. Ngay vịnh hiện còn miếu thờ, hàng năm người dân xung quanh đều tổ chức lễ cúng.
Bình luận