Gò Công Xưa – Đám Lá Tối Trời Nơi Âm Binh Xuất Hiện

Gò Công Xưa – Đám Lá Tối Trời Nơi Âm Binh Xuất Hiện

Chốn người Nam đã 2 lần chống giặc Pháp xâm-lăng. Đám lá tối trời ! Một vùng rộng lớn ở làng Kiểng-phước tỉnh Gò-công gần cửa Soi-rạp.

Ngày trước, như tên nó đã chỉ, vùng này mọc toàn dừa nước dày đặc, dày đến nổi tàn cây nhành lá che kín mít ngăn cản ánh thái dương rọi xuống đất lành. Xuyên lọt vào vùng này như thể vào một đền thờ, giữa trưa trời nắng chan chan trong lùm vẫn im mát lạ thường lúc trời chiều bóng xế nơi đây bắt đầu mờ mịt tối.

Vì ánh mặt trời không bao giờ soi tới đất, nơi đây ẩm thấp lạnh-lùng, dưới đất đầy cỏ mục côn trùng, trên không bao phủ một không-khí ướt-át âm-u, nặc mùi tử khí. Người lọt vào vùng này bước một bước là gây nên một cuộc chạy trốn tứ tán của các giống vật chuyên bò dưới đất, chạm đến một lùm cây là bốc lên một đám mây muỗi mòng bay khắp mọi nơi. Thế giới của những giống chuyên sống trong bóng tối !

Thế mà ngày xưa nơi đây có những người chen vào tìm lẽ sống. Đó là những người vì nước quên hẳn bản thân, những người từ bỏ gia đình đầm ấm, làng xóm thân yêu, chấp nhận gian lao vào nơi tăm-tối để nuôi chí căm thù. Đó là những chiến sĩ của anh-hùng Trương-công-Định sau những trận giao phong với quân thù cướp nước, thất thế trước võ khí tối-tân và quân địch hùng-hậu, trước đa số đồng bào nhút nhát cầu an, phải tạm thời rút vào miền hiểm trở quân địch khó tiến vào, trong thế châu chấu đá xe phải dùng du kích chiến kéo dài cuộc kháng chiến cho ngọn lửa thiêng đừng tắt, đừng bao giờ tắt.

image 70 Gò Công Xưa – Đám Lá Tối Trời Nơi Âm Binh Xuất Hiện

Chuyện xảy ra cách đây hơn một thế kỷ, vào khoảng 1861-1864. Vùng « Đám lá tối trời », một nơi âm độc con người khó sống, lại là một chiến khu rất tốt. Từ căn cứ này, kháng chiến quân của Trương-Công-Định phóng ra những cuộc tấn công chớp nhoáng rồi rút theo chiến thuật « tam khoái » (Ba mau : đi quân mau, đánh phá mau, rút về mau) đã làm cho giặc Pháp ngay ngáy đêm ngày. Theo tin tình báo cho biết đám-lá-tối-trời là mật khu của kháng-chiến quân, nhưng biết mà không làm gì được vì pháo-binh hồi đó vừa thô sơ vừa không đủ để oanh tạc cả vùng đám-lá-tối- trời, mà đem bộ binh vào không có pháo binh yểm trợ là vào chỗ chết.

Nhưng rồi họ vẫn làm được, bằng cách dùng củi đậu nấu đậu, dùng chó ghẻ của đất Việt cắn người Nam. Cái việc giặc Pháp không làm nổi, thì đội Tấn và lũ chó săn của y làm được, nhờ cùng một màu da một ngôn ngữ chúng lừa gạt được những anh-hùng-quốc-gia. Nhờ lọt được vào trong trận địa, đội Tấn với những tên thân binh thờ giặc Pháp tấn công thình lình làm cho kháng chiến quân trở tay không kịp. Anh hùng gặp phải vận cùng. Trương-Công đành thất thủ.

Giặc Pháp thắng thế ! Đội Tấn và lũ chó săn được gặm xương ! Đất nước tủi hờn, những oan hồn uổng tử mang mối hận xuống thuyền đài không tan.

Từ đó thiên hạ đồn ở vùng đám-lá-tối-trời cứ đêm đêm nghe tiếng gào thét, tiếng binh đao va chạm. Khi thì nghe tiếng chân đi rầm rập như thiên binh vạn mã rần rộ kéo đi, lúc lại nghe ngựa hí người la và tiếng trống trận.

Nghe đồn, một vài người gan dạ rũ nhau đi xuồng lá, vào gần đám-lá-tối-trời ở lại một đêm thử xem. Những người kia đã nghe thấy những gì ?

Khi trở về, ai han hỏi họ không trả lời có hay không, chỉ lắc đầu tỏ ra buồn bã. Phải chăng họ đã thông cảm những nổi đau buồn uất hận của kháng-chiến quân Trương-công- Định, không buồn thuật lại những điều mắt thấy tai nghe cho những kẻ vô tâm, hiếu kỳ và cầu an.

Một bằng chứng về sự lạ âm binh hiển hiện trong vùng âm u đám-lá-tối-trời, là chính giặc Pháp cũng phải lưu tâm. Một thời-gian khá lâu, chúng đem đại-bác xuống bắn vào vùng, và cho lính đến thổi kèn đồng để phá bớt cảnh âm-u tịch-mịch.

Không phải vì sợ tiếng đại-bác hay kèn đồng của quân địch – lúc sống còn không sợ, chết rồi hồn thiêng còn sợ chi ai ? – nhưng sau một thời-gian khí hậu không tiêu còn vương vấn cây cỏ, có lẽ anh hồn các chiến-sĩ của Trương- Công nhờ các cuộc cầu siêu kinh kệ của người chơn đạo, đã hiểu lẽ huyền-vi của tạo-hóa mà xa lánh cuộc đời ô-trọc không nghĩa lý gì. Mọi sự chỉ là hư không, có ích gì mà quyến-luyến ? Sống làm tướng, chết làm thần, dầu không có sắc phong, cũng được nhơn dân muôn đời kính bái.

Từ đó khí oán tiêu tan, ở đám-lá-tối-trời không còn nghe những chuyện ma quái nữa. Tuy vậy, cảnh cũ vẫn còn u ám, chuyện xưa còn ghi trong tâm tưởng nhiều người. Thường dân ít có ai dám léo hánh đến gần sau khi mặt trời xế bóng. Những kẻ gian lợi-dụng sự kiêng sợ này. Quân trộm cướp làm ăn được đem tài vật về giấu giếm ở vùng này. Bọn trộm trâu bò cũng dắt về vùng này làm thịt, khỏi sợ ai dòm ngó.

Một số dân lương-thiện nhưng không tiền đóng thuế thân cho Pháp phải trốn tránh, cũng dùng đám-lá-tối-trời làm nơi ẩn lánh thân mình.

Non một thế-kỷ trôi qua, lịch-sử lại tái diễn. Nhơn sự sụp đổ của thực-dân trong đệ-nhị thế chiến, cuộc toàn dân kháng Pháp nổi lên ở miền Nam. Tinh-thần bất-khuất của dân tộc còn sống mãi, thanh niên Bến-tre – Gò-công không hổ là con cháu những anh-hùng ngày xưa đã hy-sinh trong đám-lá-tối-trời, đã vùng lên chiến đấu hy-sinh oanh-liệt, và cũng như ngày trước, kháng chiến quân ta đã lại dùng căn cứ cũ, làm cho Pháp quân điêu đứng vì vùng bí hiểm đám- lá-tối-trời. Một vùng nhỏ của non sông đã ghi những trang sử thắm.

Ngày nay quang cảnh vùng đám-lá-tối-trời đã thay đổi hẳn. Với sức phát-triển của nhơn dân Gò-công không ngừng dầu trong thời chiến, vùng đám-lá-tối-trời đã được khai hoang. Nhà cửa, ruộng nương, rẫy bái, cảnh sống động đã thay thế rừng dừa sầm-uất ngày xưa. Vùng âm-u chết chóc đã biến thành khu sản xuất đóng góp vào đời sống quốc- gia.

Tuy nhiên người du khách bước đến đây không khỏi dừng chơn một lúc suy tư, mừng cảnh sống vui tươi, nhưng không khỏi ngậm ngùi nhớ lại người xưa đã rưới máu cho đất này tươi tốt lại.

Huỳnh Minh

Bình luận