Một bậc hiền-phụ ở nước ta vào cuối thế kỷ XIX. Bà tên Phạm-thị-Hằng, hiệu Từ-Dũ, sinh ngày 19-5 năm Canh-ngọ (1810) tại Gia-định, huyện Tân-hòa, Giồng Sơn-qui, nay thuộc tỉnh Gò-công.
Bà là trưởng-nữ của quan Thượng-thơ bộ Lễ Phạm- đăng-Hưng và bà Phạm-thị-Vị. Sau này là vợ của Hiến-tổ Chương-hoàng-đế tức là vua Thiệu-trị, mẹ của vua Tự-Đức.
Xứ Gò-công là quê-hương của bà, địa-thế nằm cách bờ biển Nam-hải, độ 15 cây số ngàn, đất đai trù-phú, sông dài bể rộng, phần nhiều là giồng cát và ruộng lúa phì-nhiêu, quanh năm nước mặn nên tại mỗi giồng đều đào giếng chứa nước ngọt xài nhưng cũng bị mội nước mặn rút vào, pha chè không ngọt lắm.
Các bô lão địa-phương kể lại cho chúng tôi nghe một chuyện rất lạ, là khi sanh bà ra thì nước giếng nơi Giồng Sơn-qui trở nên ngọt thanh khiến ai nấy cũng đều ngạc- nhiên cho đó là một điềm lành. Các vùng phụ cận nghe tiếng đồn đổ xô đến Giồng Sơn-qui gánh nước đem về uống, nước rất ngon và chữa được bịnh.
Từ khi bà ra chào đời thì đất Giồng Sơn-qui càng ngày càng nổi lên cao như dạng mô rùa, cây trái xum xuê thạnh mậu hơn các chỗ khác, phải chăng bà là một tinh đẩu giáng trần để sau trở nên bậc mẫu nghi trong thiên hạ ?

Soạn giả Nguyễn-liên-Phong trong quyển Từ-Dũ Hoàng Thái-Hậu truyện, xuất bản vào năm 1913, đã mô tả bằng 2 câu dưới đây :
Lệ thủy trình tường thoại. Qui khâu trúc phước cơ.
Nghĩa là :
Nước ngọt trổ điềm lành. Gò rùa vun đất phước.
Thật là « Địa-linh » trổ sanh « Nhơn-kiệt ».
Lúc bấy giờ có một thầy địa-lý nổi tiếng nghe đồn cuộc đất này có nhiều việc thay đổi lạ thường, nào là nước trở nên ngọt thanh, đất càng ngày càng bồi lên cao, bèn đến quan-sát đặt địa-bàn thí nghiệm, và cho đó là vùng đất linh tích tụ âm dương lâu đời có nhiều sinh khí, dưới lòng đất có long-mạch, đến ngày giờ được khai thông, lại thêm có các huyệt Bạch-hổ, Thanh-long, Châu-tước v.v…
Bà sanh ra nhằm ngày tốt mà lại ở vào cuộc đất trên đây, chắc chắn trong tương-lai sẽ được sáng chói trong thiên hạ, chẳng những ảnh hưởng đến người ở chung quanh con giồng này mà về sau cũng được khá giả hiển đạt với đời. Sự việc đã thể hiện như lời của ông thầy địa-lý cho biết, về sau đã xảy ra y như vậy.

Phủ thờ đệ nhị chi Thích lý, một trong ba chi của đức Từ-Dũ, tọa lạc tại xã An-hòa. Người đứng trước đền thờ là ông
Phạm-đăng-Giác, nay 70 tuổi Miêu duệ của chi này.
TÌM HIỂU MỘT VÀI ĐỨC TÁNH CỦA BÀ TỪ-DŨ
Bà lúc nhỏ tỏ ra thông-minh kinh sử, tánh rất hiền từ nhã độ, đi đứng nghiêm-trang, phương-phi cốt cách phải là một trang đài các. Qua đến năm 12 tuổi, Đức Quốc công phu-nhân lâm bịnh, ưa nằm một mình chỗ thanh vắng không chịu tiếp xúc với ai thăm viếng. Bà ngày đêm chầu chực bên mẹ, thuốc thang, cơm cháo chẳng khi nào rời cho đến khi phu-nhân mất. Bà vô cùng cảm xúc sớm khuya khóc kể, lo việc tang chế phụng tự lửa hương không dứt, đêm ngày thức khuya dậy sớm cúng lạy, lâu ngày sức lực kém suy sanh ra bịnh hoạn thân hình gầy ốm. Bà thật là một người con chí hiếu ai trông vô cũng đều khen ngợi, tiếng đồn đến tai Cao hoàng-hậu khiến Hoàng-hậu để ý người con gái đất Gò đầy đủ đức-hạnh vẹn toàn, tiếng thơm bay khắp chốn, như báo trước rồi đây cuộc đời của bà sẽ bước qua một giai đoạn mới liên quan đến lịch-sử Việt-Nam sau này…

Người xưa có làm 4 câu thơ để ca ngợi đức tánh của bà đến nay thế nhân còn nhắc nhở, ấy là :
Trời sanh quốc mẫu nết na hiền, Thuở tuổi mười hai đã tự nhiên,
Giồng lệ thủy tượng trưng thánh chúa, Gò Sơn-qui triệu ứng thiên duyên.
BÀ TỪ-DŨ ĐƯỢC TUYỂN TIẾN CUNG
Qua năm 14 tuổi, Đức Thuận-thiên Cao Hoàng-hậu, vợ kế vua Minh-Mạng nghe bà là người hiền đức bèn tuyển triệu lai kinh, dạy vào hầu lịnh Hoàng trưởng-tử là Hiến-tổ
Chương-hoàng-đế, ngày sau kế vị lấy niên hiệu là Thiệu-Trị (lên ngôi năm 1841).
Bà từ khi bước chân vào cung vẫn giữ một niềm khiêm nhường thảo thuận ! Đức Thánh-tổ đem lòng thương mến và đồng thời lịnh vua lại cho đòi con gái quan Kinh-môn Quận công Nguyễn-văn-Nhơn là bà Lịnh-Phi, cũng dạy vào hầu Hoàng trưởng-tử. Bà Lịnh-Phi nhờ cha quyền cao chức lớn cho nên ngôi thứ ở trên bà !
Một ngày kia, Đức Thánh-tổ ban cho hai bà hai cái áo chẹt kim sa bâu trệt. Đến lúc ấy hai bà vô bái tạ, lại vâng lịnh Cao Hoàng-hậu sắm ban cho hai bà bộ nút vàng, một bộ đậu hình phụng, một bộ đậu hình hoa, hai bộ đều gói giấy riêng, bao phong cẩn mật.
Lịnh Cao Hoàng-hậu hằng đêm thầm vái phật trời nếu ai bắt đặng bộ nút đậu hình phụng thời có con trước, vái rồi sai nữ quan đem ban cho hai bà, dạy một bà lấy một gói để nguyên phong tấn nạp không đặng phép mở. Bà nhường cho bà Lịnh-phi lấy trước, đến chừng dâng lên, lịnh Cao Hoàng-hậu mở ra xem, thời bà Lịnh-phi đặng bộ nút đậu hình hoa bà đặng bộ nút hình phụng. Qua năm 15 tuổi, bà sanh đặng Diên-Phước trưởng công-chúa, cách năm sau bà sanh đặng thứ trưởng công chúa, lúc bấy giờ ngôi thứ lại đổi ra ở trước bà Lịnh-phi, từ đây bà đối với bà Lịnh-phi càng thắm thiết, không giai cấp riêng rẽ gì cả, đức-tánh của bà thể hiện lòng yêu thương tất cả những người trong cung nội, giúp đỡ tiến dẫn họ có chỗ dựa nương, thật là một người nhơn-đức không ai bằng. Một đêm kia bà nằm chiêm bao thấy thần linh bưng một tờ giấy vàng viết chữ đỏ, có đóng ấn vua và một xâu chuỗi minh-châu sáng lòa, trao tay cho mà dặn rằng : « Coi theo đó sẽ biết ». Bà thọ lãnh, chẳng bao lâu có nghén đãn sanh ra Đức Dục-Tôn-Anh Hoàng-đế, ngày sau kế thống niên hiệu là Tự-Đức quả như chiêm bao ứng mộng.

Ấy là :
Thần nhơn bỗng thấy lúc canh chầy, Tỉnh dậy mơ màng giấc ngủ say,
Chữ đỏ dâng đem trao tận mặt, Nút vàng trước đã nắm trong tay,
Điềm sanh chúa Thánh đâu đoan mách, Phước ứng ngôi Trời chẳng đổi thay, Vòi vọi Đồ-sơn 7 ơn nhũ bộ,
Đắp vung nên Họ vững bền xây.
Xuyên qua cuộc đời của bà từ ngày được tuyển vào cung làm vợ của vua Thiệu-trị, bà giữ đúng theo khuôn mẫu của Triều-đình. Mỗi lần nơi trào nội có bày ra các lễ cúng, hoặc tế đàn Nam-Giao bà thường đến trước sắp đặt trang hoàng, mặc dầu công việc ấy có quan nghi lễ lo-liệu, nhưng bà không thể ngồi chờ cho người ta làm rồi mới đến sau. Bà tỏ ra rất mực thước, siêng năng giỏi dắn, các quan ai nấy đều tán dương đức-độ của Bà. Đến khi đức Thánh-tổ băng-hà, đức Hiến-tổ lên ngôi, niên hiệu là Thiệu-Trị, bà được phong lên cung tần, hai năm sau (1843) được sắc phong làm Thần phi.
Qua đầu năm Thiệu-Trị thứ 6 (1846) được phong làm Quí-phi rồi Nhất-giai-phi. Năm thứ 7 (1847), vua Thiệu-Trị
lâm bệnh nặng, chưa kịp lập sách cho bà làm Hoàng-hậu thì vua mất, bà hết sức buồn rầu, mỗi ngày thường ra hoàng- lăng quỳ than khóc nức nở.
Vua Thiệu-Trị nối ngôi cha tại vị 7 năm.
Lòng trung nghĩa của bà đối với nhà vua đã chứng tỏ bà là một bậc hiền phụ ít ai bằng. Mỗi năm đến ngày giỗ cúng vua Thiệu-Trị bà mặc lễ-phục đứng hầu trước điện thờ cũng như trong lúc còn sống, bà ôm mặt khóc tức tửi, thật bà quả là người hữu thủy hữu chung, thờ chồng trọn đạo.
Vua Thiệu-Trị băng hà, bà hết lòng dạy dỗ vua Tự-Đức trở nên một ông vua chí hiếu. Hằng đêm bà thường giảng sách cho vua nghe cắt nghĩa từng ly từng tí. Bà dạy cách trị nước chăn dân, nhờ vậy mà vua Tự-Đức trở nên thông-minh hiếu học.
Một hôm nhà vua đi săn bắn dẫn các quan theo hộ vệ, bà kêu khiển trách : « Một mình con đi chơi mà làm nhọc đến triều-thần thật là lỗi lớn, từ đây về sau không nên làm như vậy nữa ». Khi bắn được thú, con nào thương tích nhẹ còn sống đem dâng cho bà, bà liền lấy thuốc xức và băng bó vết thương lành rồi phóng sanh, lòng nhơn đức của bà thương người mến vật sánh như bể cả. Mỗi khi nhà vua có chuyện lỗi lầm bà kêu đến nhịp roi và hết lòng giáo huấn, vì thế mà vua Tự-Đức trở nên một ông vua hiền hòa hơn hết, ưa thích ngâm thơ vịnh phú, có tài xuất khẩu thành thơ, văn chương lưu-loát.
TỰ-ĐỨC NỐI NGÔI CHA XƯNG HIỆU DỤC-ANH-TÔN HOÀNG-ĐẾ
Vua Tự-Đức lên ngôi chấp chính việc trào chánh, nhiều lần ngõ ý định tấn tôn cho bà Từ-Dũ nhưng bà một mực từ chối, mãi đến ngày 15 tháng 4 năm Tự-Đức thứ 2 (1849), nhân khánh thành cung gia-thọ, triều thần văn võ đến yêu cầu bà nên để cho nhà vua tấn tôn, lần này bà mới chấp nhận tôn hiệu là Hoàng thái-hậu.
Bình sanh tánh hay khiêm nhường không ham danh tước, lúc nào cũng từ chối, nhưng lệ vua luật nước không cho phép. Một hôm vào dịp ngũ tuần, vua Tự-Đức cùng đình-thần dâng sớ khẩn thỉnh bà chịu tấn tôn huy hiệu Mỹ- Tự, bà dụ rằng :
Cám Hoàng-đế có lòng hiếu phụng, Xót trào thần hết bụng lo toan,
Vị vong nhân ai thống tiên hoàng. Sầu não ấy ngổn ngang chưa giải, Tấn tôn lễ hãy tua đình đãi,
Đợi Tây-cung rồi lại sẽ hãy.
« Ta đã được thiên hạ phùng sụng, thì nên lo những việc thiên hạ đương lo, năm nay dân chúng chưa được đặng mùa, ta có vui sướng chi, chính lúc Hoàng-đế phải lo chăn dân, lòng ta nào có yên mà nghĩ đến sự tôn vinh, ta xét nét kỹ càng trước cái bả hư danh, bắt buộc ta gánh thêm cho thất đức hay sao ?
« Vậy thì sớ thỉnh ấy nên bãi đi thì hơn, ta khuyên tất cả chủ công triều-thần văn võ lo giúp chánh-trị trong nước
thái-bình, không chi sánh bằng ».
Bà hết sức chăm lo việc nước, nghĩ đến sự sống còn của nhân dân, bà lo sợ cho vua Tự-Đức không sáng suốt làm thất nhân tâm, mỗi đêm bà thường kêu vua Tự-Đức đến nghe bà phân tách sự lợi hại, bà đóng góp một phần rất lớn với triều-đình.
Năm 1874, khi hay tin quân đội Pháp vào xâm chiếm toàn cõi Nam-kỳ và buộc Triều-đình Huế ký hòa-ước nhượng địa, bà hết sức buồn bã bỏ ăn bỏ ngủ, đứng ngồi không yên, tủi cho vận nước đành ngửa nghiêng do bọn xâm lăng cướp nước gây tang tóc cho xứ sở.
Vua Tự-Đức bất lực không làm gì được đành phải nhượng bộ để cho Pháp chiếm trọn 6 tỉnh Nam-kỳ. Vì không tin lời của Phan-Thanh-Giản qua nghị hòa bên Pháp quốc về thuật lại sự tiến bộ của Tây-phương, giữ óc thành-kiến, nghe theo lời của đám ngu thần dua nịnh, không chịu cho người sang nước ngoài để học hỏi, chẳng nhìn xa nên phải đi lần đến chỗ mất nước.
VUA TỰ-ĐỨC BĂNG HÀ
Tháng 6 năm Quí-mùi (1883), vua Tự-Đức mất, trị vì được 36 năm, để lại di chiếu tôn bà Từ-Dũ làm Thái-hoàng Thái-hậu, cái chức ấy là bậc mẫu-nghi của thiên hạ, nhưng bà có vui sướng gì đâu, đêm ngày bà đầm-đìa rơi lụy thương chồng nhớ con, phần lo cho nước non rồi đây sẽ đổi chủ, cảnh núi xương sông máu hiện ra trên đất kinh thành không biết lúc nào. Bà nhớ đến công-nghiệp của Cao-Hoàng
gian lao hạn mã, thống nhứt giang san lần hồi phải về tay người khác. Sự lo lắng của bà không bút mực nào mà tả cho hết.
KINH THÀNH THẤT THỦ, VUA HÀM-NGHI BÔN TẨU
Ngày lịch sử trọng đại của nước Việt-Nam để bước qua một con đường mới đã diễn năm 1885, kinh thành Huế thất thủ, bà cùng với hai Hoàng Thái-hậu và Hoàng Thái-phi, vợ vua Tự-Đức, theo chân vua Hàm-Nghi bôn đào chạy loạn, ra đến Quảng-trị. Theo lời van tâu của vua Hàm-Nghi bà và lưỡng cung mới trở về Huế lại.
Vua Đồng-Khánh lên ngôi, phong bà mỹ-hiệu là Từ-Dũ Bác-huệ Thái-hoàng Thái-hậu. Với tuổi già bà ở yên nơi cung nội cho đến ngày chết.
Ngày mùng 5 tháng 4 năm Tân-sửu (1901), bà qua đời hưởng thọ 93 tuổi, tôn thụy là Nghi-thiên táng-thánh Từ- Dũ, Bác-huệ Trai-túc tuệ, đạt thọ đức nhân công chuyên Hoàng-hậu.
Ngày 20 tháng 5, triều-đình cử hành đại lễ tống chung bà vào lăng Xương-thọ tại Huế. Giao cho quan Lộc-tự-khanh tên Phạm-nhã-Khánh chủ coi việc tế tự, mỗi kỳ đến ngày cúng tế đem về biên dụng.
Tóm lược qua phần tiểu-sử của Đức Thái-hoàng Thái- hậu, từ lúc mới sanh đến khi tiến cung hồi 14 tuổi rồi sau làm chánh cung của vua Thiệu-Trị, bà hưởng thọ 93 tuổi,
hài cốt gởi nơi đất Thần-kinh cho đến ngày nay. Những thân nhân của nhà họ Phạm hiện còn cư ngụ tại Gò-công. Theo một tài liệu trong gia phả của nhà họ Phạm tôi biết có 3 chi, bà Từ-Dũ thuộc về chi thứ ba. Đền thờ tọa-lạc tại Sơn-qui thờ quý ông Phạm-Đăng-Dinh, nội tổ Phạm-đăng-Hưng sanh ra bà Từ-Dũ.
Đệ nhứt chi Phạm-tộc thờ ông Phạm-đăng-Cao là bác của bà Từ-Dũ, đền thờ tọa-lạc tại Tân-niên-đông-tây, người giám thủ nhà thờ này là ông Phạm-đăng-Đoàn.
Đệ nhị chi Thích-lý Phạm-tộc, ông Phạm-đăng-Huỳnh, đền thờ tọa-lạc tại xã An-hòa trước kia là Hòa-nghị, giám thủ là ông Phạm-đăng-Giác, nay trên 76 tuổi.
Đất Gò-công đã xuất thân ra bà Từ-Dũ một bậc mẫu- nghi dưới triều nhà Nguyễn. Bà đã nêu cao đức tánh của người phụ-nữ Việt-Nam với những trang sử vàng son lưu- danh hậu thế.
Một điều đáng cho chúng ta chú ý là ở Nam-phần Việt- Nam, đất Gia-định rất diễm-phúc có tất cả là 3 bà hoàng- hậu dưới triều nhà Nguyễn :
- Chánh hậu là Thuận-Đức-Nhơn Hoàng-hậu, họ Hồ, người tỉnh Biên-hòa, vợ của Thánh-tổ-Nhơn Hoàng-đế, niên hiệu là Minh-Mạng.
- Chánh hậu là Từ-Dũ Chương-hoàng-hậu, họ Phạm ở tỉnh Gò-công, Giồng Sơn-Qui, vợ của Hiến-tổ-Chương Hoàng-đế, niên hiệu là Thiệu-Trị.
- Bà Nguyễn hữu thị Lan người Gò-công con gái Nguyễn-hữu-Hào, tức là Nam Phương Hoàng Hậu vợ của vua Bảo Đại.
Ba vị chánh hậu trên đây đều là người miền Nam cả.






Bình luận