Rạch đôi-ma, tên chữ là Song-ma, cũng gọi là sông Tình-trinh, ở về ngọn hạ lưu hướng Bắc huyện Tân-hòa, Gò- công thuộc tỉnh Gia-định ngày xưa.
Tương truyền : Ngày xưa quanh vùng ấy có cô gái họ Phạm yêu chàng thư-sinh họ Nguyễn. Tình thắm-thiết, nghĩa mặn nồng, đôi trẻ thề nguyền trăm năm gá nghĩa vợ chồng. Cha mẹ đôi bên cũng thỏa thuận, nhưng nghị hôn mà chưa cưới. Chẳng may chàng họ Nguyễn vương bịnh lao rồi mất. Nàng họ Phạm thương cảm cũng vương bịnh chết theo. Cha mẹ đôi bên ngẩn ngơ sầu hận, cho chôn đôi trẻ gần nhau. Lâu ngày đôi uyên ương ấy thường hiển hiện, hồn hoa phách quế khoác tay nhau thơ thẩn bên bờ rạch. Nhiều người trông thấy. Xa gần vang tiếng đồn. Do đấy ngọn rạch mới mang tên là « Tình-trinh ».
Lại có một thuyết khác : Một đôi trai gái thương yêu nhau. Chàng là học trò khó. Nàng là trang lá ngọc cành vàng. Cha mẹ nàng không ưng thuận cuộc nhân duyên ấy. Nhưng nàng đã quá yêu chàng. Đáp lại, chàng cũng nguyện cùng sống chết với tình. Đang đêm, cả hai dắt nhau lội qua rạch, toan tìm đường trốn để lập tổ uyên-ương. Chẳng may cả hai đều chết đuối. Khi xác nổi lên, đôi trai gái hãy còn nắm tay nhau. Cha mẹ đôi bên động lòng, cho chôn chung một chỗ. Ít lâu, đôi lứa thường hiện lên. Vì thế đặt tên là rạch Đôi-ma hay Song-ma, có miếu thờ.

Trên đây là theo sự truyền khẩu của các vị bô lão và theo ông Thượng Tân-Thị trong bản dịch « Nam Kỳ lục tỉnh dư địa chí » của Duy Minh-Thị. Còn trong « Đại-Nam nhất thống chí » thì chép :
« Tương truyền xưa có người con gái nhà giàu tuổi vừa đến lứa cài trâm, thầm yêu gã thư-sinh Nguyễn-vi-Nhân. Nhưng gã thư-sinh vì nghèo, nên dầu biết rõ mối tình, vẫn chẳng dám mượn mai mối ngỏ việc hôn nhân. Cô gái tương- tư uất-hận mà chết. Cha mẹ nàng ấy thương tiếc không đem chôn ngay, cất lều ở sau vườn làm nơi quàn linh cữu. Gã thư-sinh hay tin, bèn đến thắt cổ chết bên cạnh.
Người ta quàn cả lại một chỗ, âm khí kết tựu lần thành ma quỷ. Sau cha mẹ cô gái đều buồn rầu mất đi. Đôi xác trẻ không ai chôn cất. Chốn hoang vu cây cối mọc đầy thành gò rậm, quỷ khí càng thạnh hành. Dân chúng thường khổ sở vì đó, đặt tên sông là Đôi ma. Sau, Tây-sơn đốt phá, tai quái mới dứt ».
Khoảng năm 1906, một người Huê-kiều chủ hiệu thuốc Bắc « Nhân Ái Đường » ở Mỹ-tho, thông hiểu Việt-văn, thường lui tới Gò-công đi ngang qua Vịnh Đôi-ma, có bài thơ cảm xúc về chuyện rạch Đôi-ma như dưới đây :
Vực thẳm cây cao chiếm một tòa, Sống không lẽ cặp, chết đôi ma. Hồn hoa đem gửi chòm cây bạc,
Phách quế nương theo bóng nguyệt tà. Con nước chảy ròng rồi kế lớn,
Tấm lòng có bậu lại cùng qua. Căn duyên ai khiến xui cho đấy, Tiếng để nghìn thu cũng lại là.
Khoảng năm 1907, ông Thượng Tân-Thị cũng có thơ đề vịnh :
Trải qua Rạch-kiến, ác chinh chinh, Nghe nói Đôi-ma bắt lạnh mình.
Thảm nỗi con nhà sinh bất hiếu, Ngán cho giọt nước khéo vô tình. Sống thề chưa vẹn duyên kim cải,
Thác nguyện cùng theo chốn thủy tinh. Ai hỡi hồn thiêng như có biết,
Tiếng đời lượn sóng nổi linh đinh.
Câu chuyện vịnh Đôi-ma hay rạch Đôi-ma, mà chúng tôi đã tường thuật trên đây là một huyền-sử có ghi trong « Đại-Nam nhất thống chí », được truyền tụng ở Gò-công cho đến ngày hôm nay. Nơi đây trở nên một danh từ rạch Đôi- ma hay lộ Đôi-ma mọi người đều biết.
Đồng bào dân chúng địa-phương, mỗi lần đi ngang qua đều nhắc đến cặp oan hồn trọn tình trọn nghĩa với nhau, không khác nào câu chuyện Lương-Sơn-Bá và Chúc-Anh-
Đài, ngày nay các gánh hát lớn ở thủ-đô thường diễn cho ta thấy.
Đây là một sự-tích chứng-minh lòng chung thủy trước sau như một, giữ chữ tín cùng nhau không quên lời ước hẹn, sống có nhau chết có nhau, âu cũng là một gương đáng cho đời soi lấy.
Lời soạn giả : Câu chuyện Đôi ma trên đây ở Long-an hay Bến-lức cũng có trùng hợp giống như Gò-công, nhưng ở các nơi khác không biết ra sao, chớ Gò-công có danh từ, và sự tích chứng-minh ai ai cũng rõ.






Bình luận