ĐẶNG KHÁNH TÌNH
Đặng Khánh Tình chưa rõ năm sinh năm mất, người thôn Vĩnh Hựu, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay thuộc xã Vĩnh Hựu, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).
Năm 1859, khi Trương Định phất cờ khởi nghĩa, ông gia nhập nghĩa quân, đầu tiên giữ chức Đội. Về sau, do có chiến tích nên được thăng lên làm Đốc binh. Sau khi Trương Định mất (1864), ông trở về quê nhà, chiêu tập nghĩa sĩ, sắm sửa lương thực, vũ khí, lập căn cứ, tiếp tục cuộc kháng chiến chống Pháp. Để có danh nghĩa và uy tín tập hợp, chỉ huy nghĩa quân, ông tự xưng là Phó Lãnh binh và được nhân dân quen gọi là Phó Lãnh binh Tình. Ông có một người phụ tá rất đắc lực là Nguyễn Văn Chung (Được biết, ông Nguyễn Văn Chung là ông nội của nhà cách mạng nổi tiếng ở Gò Công là Nguyễn Văn Côn). Giữa hai vị thủ lĩnh nghĩa quân này có tình bạn chiến đấu rất gắn bó với nhau. Cho nên, ở địa phương có câu ca:
Chừng nào hạc nọ xa đình,
Hạc xa hương án, Chung Tình mới xa.
Và:
Vĩnh Hựu Tình Chung, chân chánh khí,
Tân Niên Hòa Quới, thị anh hùng. (1)
Dưới sự chỉ huy của ông, hoạt động của nghĩa quân dần dần được mở rộng. Lo sợ ảnh hưởng của phong trào kháng chiến ngày càng sâu đậm trong nhân dân, thực dân Pháp ra lệnh cho Huỳnh Văn Tấn huy động lực lượng mạnh tấn công vào căn cứ Vĩnh Hựu. Sau ba ngày bao vây, quân giặc đồng loạt mở cuộc tiến công. Ông chỉ huy nghĩa quân kiên quyết đánh trả; nhưng do thế yếu, ông bị địch bắt.
Sau đó, bọn chúng giam giữ ông ở khám đường Gò Công. Tại đây, bọn cai ngục vừa giở trò mua chuộc, dụ dỗ; vừa tra tấn hết sức dã man nhằm buộc ông phải đầu hàng. Nhưng, ông vẫn giữ vững khí tiết, thà chết chứ không cam chịu làm tay sai cho kẻ thù ngoại bang. Cuối cùng, thực dân Pháp đã hèn hạ xử chém ông tại chợ Gò Công. Tàn bạo hơn, bọn chúng đã cho bêu thủ cấp của ông trong nhiều ngày để đe dọa nhân dân. Nhưng chính điều đó đã khiến cho quần chúng càng thêm căm thù thực dân Pháp và cảm thương vị anh hùng đã vì nước quên thân.
Hiện nay, phần mộ của ông ở ấp Thới An, xã Long Vĩnh, huyện Gò Công Tây vẫn được nhân dân hương khói quanh năm.
ĐỖ TRÌNH THOẠI
Đỗ Trình Thoại chưa rõ năm sinh, người thôn Yên Luông, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay là xã Yên Luông, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).
Thuở nhỏ, ông nổi tiếng thông minh và học giỏi. Năm 1843, ông thi đỗ Cử nhân tại trường thi Gia Định; được triều đình bổ làm Tri huyện Tân Hòa (bao gồm khu vực Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang ngày nay); nên được mọi người quen gọi là Huyện Thoại. Về sau, chưa rõ vì lý do gì mà ông bị triều đình cách chức.
Năm 1859, giặc Pháp tấn công thành Gia Định. Với lòng yêu nước nồng nàn của một trí thức chân chính, ông tham gia công cuộc chống Pháp ở mặt trận Chí Hòa (Gia Định, nay là thành phố ). Tháng 2 1861, đại đồn Chí Hòa bị thất thủ, ông trở về Gò Công, mộ nghĩa dũng và kết hợp với Trương Định nổi lên kháng chiến chống bọn thực dân xâm lược.
Sau khi hạ thành Mỹ Tho vào trung tuần tháng 4 1861, quân Pháp tiến đánh Gò Công; sau đó, bọn chúng đã cho thiết lập nhiều đồn bót ở đây nhằm kiểm soát và bình định vùng đất vừa mới chiếm được. Với quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước và bảo vệ chủ quyền dân tộc, ông đã chỉ huy nghĩa quân tiến hành nhiều trận tập kích táo bạo vào các vị trí chiếm đóng của quân viễn chinh Pháp ở Gò Công, gây cho chúng những thiệt hại đáng kể.
Tiêu biểu là trận tập kích đồn Gò Công ngày 22 6 1861. Vào lúc tờ mờ sáng, ông trực tiếp điều động nghĩa quân bất ngờ mở cuộc tấn công. Với cương vị là tướng chỉ huy, ông đã dũng cảm xông lên phía trước, bất chấp hiểm nguy mặc dù súng của địch từ trong đồn bắn ra hết sức dữ dội.
Sau khi vượt qua những vòng rào phòng thủ kiên cố, nghĩa quân đã đột nhập được vào bên trong đồn. Một trận giáp chiến kịch liệt giữa quân ta và quân Pháp đã diễn ra. Hàng ngũ của quân địch trở nên rối loạn. Bằng võ nghệ cao cường, ông đã dùng gươm giết chết tên lính thủy quân lục chiến Bodiez và đâm trọng thương tên trung úy Paulin Vial, Trưởng đồn kiêm Giám đốc bản xứ sự vụ Gò Công. Nhưng, thật không may, ông bị trúng đạn; và anh dũng đền nợ nước, để lại bao niềm thương tiếc của sĩ dân Gò Công.
MẠC BẢO ĐƯỜNG
Mạc Bảo Đường chưa rõ năm sinh, người thôn Yên Luông, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay thuộc huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).
Năm 1859, ông gia nhập lực lượng nghĩa quân Trương Định; tham gia nhiều trận đánh ác liệt với quân Pháp, lập được những chiến công oanh liệt, nên được Trương Định phong chức Thống quản cơ với trọng trách là chỉ huy nghĩa quân bảo vệ phòng tuyến phía tây (thuộc địa bàn huyện Gò Công Tây hiện nay) của căn cứ Gò Công.
Năm 1862, quân Pháp tiến đến xóm Nhà Dài (nay là ấp Hòa Bình, xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây). Nhận được tin cấp báo, mặc dù là ngày mùng 5 Tết, ông vẫn lên yên ngựa, nhanh chóng tập hợp và chỉ huy nghĩa quân bất ngờ bao vây, tấn công quân địch. Trận chiến đã diễn ra rất quyết liệt. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp đã tập trung mọi loại hỏa lực bắn mạnh vào lực lượng nghĩa quân. Giữa lúc đó, ông bị trúng đạn của đối phương. Do vết thương quá nặng, ông đã anh dũng đền nợ nước.
Phần mộ của ông, do sự thay đổi của các khu dân cư trong những thế kỷ qua, nên chưa biết đích xác ở đâu; chỉ biết rằng, nơi chôn cất ông tọa lạc tại một khu đất thuộc ấp Chợ Mới, xã Long Hòa, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
NGUYỄN NGỌC CHẤN
Nguyễn Ngọc Chấn chưa rõ năm sinh, người thôn Tân Niên Tây, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay là xã Tân Tây, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang).
Năm 1859, ông tham gia khởi nghĩa Trương Định, lập được nhiều chiến công, nên được phong chức Đốc binh, do đó, mọi người quen gọi là Đốc binh Chấn. Trong quá trình chiến đấu, ông là một trong những cộng sự thân tín nhất và được Trương Định đặc biệt tin cậy. Ngày 20 8 1864, trong trận đánh trả cuộc tập kích bất ngờ của quân địch do Huỳnh Văn Tấn chỉ huy, ông đã cố sức bảo vệ Trương Định; nhưng sự việc không thành; và cuối cùng, vị chủ tướng anh hùng đã ngã xuống trong vòng tay của ông. Bản thân ông cũng bị trọng thương. Giặc Pháp đưa ông về giam giữ ở Gò Công. Bọn chúng giở thủ đoạn vừa mua chuộc, dụ dỗ; vừa đánh đập, tra tấn dã man, hòng buộc ông phải quy hàng. Nhưng, ông vẫn một lòng trung thành với đất nước và dân tộc. Bất lực trước ý chí kiên cường của vị Đốc binh yêu nước, thực dân Pháp đã đày ông ra Côn Đảo. Mãi chín năm sau, ông mới được trả tự do. Về lại quê nhà, ông mở trường dạy học nhằm truyền dạy tinh thần đấu tranh bất khuất cho môn sinh và lập đền thờ hương khói thờ phụng Trương Định và những nghĩa quân đã vì nước quên thân.
Năm 1907, do tuổi cao sức yếu, ông qua đời tại Giồng Tháp (Gò Công). Mộ của ông được xây bằng đá xanh theo lối ‘Ngưu phanh’, tọa lạc tại xã Tân Tây, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.
TRẦN VĂN HIỀN
Trần Văn Hiền chưa rõ năm sinh năm mất, người thôn Long Thạnh, huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay thuộc huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).
Năm 1859, ông tham gia cuộc khởi nghĩa Trương Định. Do lập được nhiều chiến công, ông được Chủ tướng Trương Định phong chức Đốc binh. Tháng 8 1864, Trương Định bị giết hại, cuộc khởi nghĩa tan vỡ, ông bị thực dân Pháp đày đi Côn Đảo. Sau đó, ông vượt ngục trở về Gò Công, chiêu tập nghĩa sĩ, chuẩn bị khởi binh chống Pháp. Phong trào ngày một lớn mạnh. Để gây thanh thế, từ căn cứ Long Thạnh, ông chỉ huy nghĩa quân tấn công đồn Chợ Giồng (nay thuộc thị trấn Vĩnh Bình, huyện Gò Công Tây), gây cho địch nhiều thiệt hại.
Sau trận này, chính quyền thực dân huy động lực lượng mạnh từ Mỹ Tho và Gò Công đến đàn áp. Cuộc khởi nghĩa bị thất bại. Ông bị thực dân Pháp bắt, đày đi Cayenne (Trung Mỹ); và qua đời ở tại đó.
TRẦN VĂN THIỆN
Trần Văn Thiện, chưa rõ năm sinh, người thôn Đồng Sơn, huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay là xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang).
Năm 1859, ông tham gia cuộc khởi nghĩa Trương Định, được Bộ Chỉ huy nghĩa quân phong chức Phòng, nên còn được gọi là Phòng Thiện. Do có chiến tích nên ông được Trương Định tin tưởng giao cho nhiệm vụ trấn giữ mặt trận Đồng Sơn. Sau khi Trương Định bị giặc Pháp sát hại (1864), ông vẫn chiêu mộ nghĩa sĩ, tích trữ quân lương, tiếp tục cuộc kháng chiến chống bọn thực dân xâm lược. Để buộc ông phải ra hàng, địch giở thủ đoạn hèn mạt là bắt thân phụ của ông tra tấn rất dã man. Nhưng thân phụ của ông chẳng thà chịu cảnh tù đày, chứ nhất định không gọi ông ra đầu thú. Nghĩa quân của ông hoạt động đến năm 1875 thì mới bị quân Pháp tiêu diệt hẳn. Ông bị địch bắt tại Thạnh Nhựt (nay thuộc huyện Gò Công Tây) và nhận án tử hình một cách ung dung. Trước lúc lên đoạn đầu đài, ông vẫn lạc quan bày tỏ lòng yêu nước và nói câu: ‘Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục’; nghĩa là ‘Thà chịu chết chứ không chịu nhục’. Giặc Pháp đã chém đầu ông tại lầu Bà Tám Huê Chín Đào (nay thuộc ấp Lợi An, xã Đồng Thạnh).
Hiện nay, phần mộ của ông vẫn còn tại ấp Hòa Bình, xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
TRƯƠNG CÔNG LUẬN
Trương Công Luận chưa rõ năm sinh năm mất, người huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay là Gò Công, Tiền Giang).
Ông tham gia cuộc khởi nghĩa Trương Định, có thừa tài trí và lòng dũng cảm, lập được nhiều công trạng trong chiến đấu, nên được phong làm Phó tướng. Sau khi Trương Định hy sinh (20 8 1864), ông tiếp tục chiêu mộ nghĩa quân đánh Pháp tại vùng Gò Công. Với lối đánh phục kích, khi ẩn khi hiện, nghĩa quân do ông chỉ huy là nỗi ám ảnh thường xuyên đối với quân địch. Sau đó, thực dân Pháp tổ chức lùng sục, bố ráp nghĩa quân. Cuối cùng, ông sa vào tay giặc. Dụ hàng không được, bọn chúng đã hèn hạ chém đầu ông.
Hiện nay, phần mộ, miếu thờ và nhà lưu niệm của ông tọa lạc tại thị trấn Tân Hòa, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.
TRƯƠNG ĐIỀN
Trương Điền chưa rõ năm sinh năm mất, tương truyền là con của quan Lãnh binh tỉnh Gia Định Trương Cầm và là anh của Trương Định, quê quán ở thôn Tư Cung, phủ Bình Sơn, trấn Quảng Ngãi (nay là xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi).
Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm thành Sài Gòn (tháng 2 1859), ông chiêu mộ nghĩa quân, lập căn cứ ở Đường Tranh (nay thuộc huyện Cần Giờ, TP ), khởi binh đánh bọn giặc xâm lược. Bị quân Pháp đàn áp, ông rút quân về Gò Công, dự định gia nhập lực lượng của Trương Định; nhưng mới vừa đến nơi thì vị Bình Tây Đại tướng quân đã bị giặc sát hại (tháng 8 1864); nên ông đành tạm dừng quân ở Gò Tre (nay thuộc thị xã Gò Công).
Quân Pháp hay tin được vội truy đánh. Ông chỉ huy nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm. Nhưng do thế giặc quá mạnh, ông phải cho nghĩa quân di chuyển về Rạch Già (nay thuộc xã Tân Phước, huyện Gò Công Đông) để củng cố lực lượng. Quân địch lại bám theo tấn công. Ông đành phải mở đường máu chạy thoát về vàm Kỳ Hôn (Chợ Gạo). Sau đó, giặc Pháp tiến hành cuộc truy nã rất gắt gao nhằm bắt sống ông. Thế nhưng, bằng sự mưu trí và dũng cảm, một lần nữa, ông lại thoát khỏi vòng vây của địch; lần về Long Bình (nay thuộc Gò Công Tây) ẩn náu. Tại đây, được sự giúp đỡ chí tình của nhân dân, ông lập căn cứ Bưng Sen, tiếp tục cuộc kháng chiến chống Pháp. Trước tình hình đó, thực dân Pháp huy động lực lượng lớn tổ chức cô lập, phong tỏa vùng căn cứ này. Do bị chặn đường tiếp tế, nghĩa quân dần dần lâm vào tình thế vô cùng khó khăn; lương thực, vũ khí, thuốc men thiếu thốn nghiêm trọng. Giữa lúc đó, do phải trải qua nhiều gian khổ, ông bị bệnh nặng và qua đời.
Hiện nay, phần mộ của ông tọa lạc tại ấp Ninh Quới, xã Long Bình, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
VÕ ĐĂNG ĐƯỢC
Võ Đăng Được chưa rõ năm sinh, người thôn Đồng Sơn, nay là xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
Năm 1859, ông tham gia cuộc khởi nghĩa Trương Định, từng theo Chủ tướng đánh nhiều trận với quân đội viễn chinh Pháp. Trong một trận đánh ác liệt ở Tân An (Long An), do quân địch có hỏa lực mạnh nên nghĩa quân tạm thời rút lui. Lúc đó, tuân theo mệnh lệnh của Trương Định, ông chỉ huy một cánh quân lui về Đồng Sơn, củng cố lực lượng, xây dựng căn cứ, tích trữ lương thực và vũ khí nhằm tạo thành một phòng tuyến, bảo vệ căn cứ Gò Công từ hướng tây bắc. Năm 1863, thực dân Pháp mở cuộc tiến công đại quy mô vào chiến lũy Đồng Sơn. Mặc dù có sự chênh lệch lớn về quân số và vũ khí, nhưng ông đã cùng với nghĩa quân chiến đấu rất kiên cường, dũng cảm, nhằm chặn bước tiến của địch. Sau đó, quân giặc phải sử dụng pháo hạng nặng để công phá. Cuối cùng, căn cứ bị tan vỡ; ông đã anh dũng hy sinh tại trận tiền.
Ngưỡng phục và kính thương người anh hùng nông dân đã ngã xuống vì đại nghĩa, nhân dân ở đây đã lập một ngôi miếu thờ ông (được gọi là Dinh Ông). Đồng thời, đồng bào ở trong vùng cũng kiêng kị không gọi tên của ông, từ ‘Được’ được gọi trại thành ‘Đặng’. Hiện nay, phần mộ và miếu thờ của ông tọa lạc tại xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
CHÚ THÍCH:
(1) Ở thôn Tân Niên Trung (nay thuộc huyện Gò Công Đông) có hai ông Hòa và Quới đều tham gia cuộc khởi nghĩa Trương Định và lập được nhiều chiến công.






Bình luận