Địa danh được cấu tạo theo phương thức: Công trình xây dựng (Cầu) + Địa hình thiên nhiên (Sơn: 山: Núi) + Động vật (Quy: 龜: Rùa).
Sơn Quy, nguyên có tên là Quy Nguyên (龜原), có nghĩa là Gò Rùa, bởi vì nơi đây, thuở lưu dân người Việt đến khai phá, có rất nhiều rùa sinh sống; cũng có thuyết cho rằng, giồng có hình vòng tròn và dài, giữa lại cao lên giống như một con rùa nằm, nên gọi là Gò Rùa.
Đây là tổ quán của đức Thái hậu Từ Dụ (Từ Dũ). Vào giữa thế kỷ thứ XVIII, ông Phạm Đăng Long theo cha từ Quảng Ngãi vào vùng Gò Công vốn hãy còn hoang vu để lập nghiệp. Là người giỏi Nho học, tinh thông phong thủy, địa lý, ông đi nhiều nơi tìm thế đất tốt để định cư, mong con cháu sau này phát tích, hưng vượng. Lúc ông đến Gò Rùa, thấy thế đất ở đây rất đẹp và có giếng nước ngọt, trong khi đó, toàn vùng Gò Công, giếng nước ngọt rất hiếm. Do đó, ông đã quy tập mồ mả 3 đời về đây và xây nhà ở gò đất này. Ông Phạm Đăng Long kết hôn với bà Phan Thị Tánh sinh ra Phạm Đăng Hưng, sau này trở thành đại công thần của triều Nguyễn. Phạm Đăng Hưng là thân phụ của bà Từ Dụ (Từ Dũ), hoàng phi của vua Thiệu Trị, hoàng mẫu của vua Tự Đức.
Do Gò Rùa (Quy Nguyên) là quê ngoại của nhà vua, nên vua Tự Đức thay chữ Quy Nguyên thành Sơn Quy tức là Gò Rùa thành ra Núi Rùa, ý muốn nói nơi phát tích bên ngoại được vững bền như Núi Rùa, là một loại trong Tứ Linh (Long – Lân – Qui – Phụng) sống lâu lại hợp với Núi càng vững bền thêm mãi. Tại đây, vua Thiệu Trị rồi vua Tự Đức cho xây dựng ngôi Từ đường thích lý (bên ngoại của nhà vua) và cấp ruộng đất để phục vụ việc thờ phụng.
– Vị trí: km46+624
– Cầu bắc qua: Rạch Sơn Quy
– Số nhịp: 5
– Tải trọng (Tấn): HL93
– Năm đưa vào sử dụng: 2004
– Chiều dài: 126,6 m
– Chiều rộng: 10 m
Bình luận