Ở cái xứ mình, đặc biệt là ở miền Tây này, có nhiều từ nghe thiệt quen tai mình xài hoài, xài riết thành quen chứ hỏi ra lại ít người hiểu gốc gác của nó. Mấy từ này có khi là tiếng Tây, tiếng Tàu lọt vô, rồi người mình đọc trại lại, riết nó thành của riêng mình hồi nào không hay. Giống như mấy món ăn miền Tây vậy đó, ban đầu có thể là món Tàu, món Khmer, nhưng qua tay bà con mình nấu, nêm nếm lại, nó thành món Việt đặc trưng. Bữa nay, tui với bà con mình cùng dạo một vòng, khám phá coi mấy cái từ quen thuộc mà mình xài hàng ngày, thiệt ra nó đến từ đâu nghen.

Xích lô
Nhắc tới xích lô, ai mà hổng biết. Cái xe ba bánh đặc trưng của xứ mình, người ta đạp phía sau, mình ngồi trước thong dong ngắm phố phường. Bà con mình cứ nghĩ xích lô là tiếng Việt, nhưng thiệt ra nó xuất phát từ tiếng Pháp đó. “Cycle” có nghĩa là xe đạp, “pousse” nghĩa là đẩy, kéo. Ghép lại “cyclo-pousse” rồi bà con mình đọc nhanh, đọc lướt, riết nó thành xích lô luôn. Hèn gì hồi nhỏ hay thấy mấy cô, mấy chú Tây thích ngồi xích lô lắm.
Nguồn gốc: Từ “cyclo” trong tiếng Pháp là cách viết rút gọn của “cycle” (nghĩa là xe đạp, xe có bánh xe) và “pousse” (nghĩa là đẩy, kéo). Tên đầy đủ ban đầu của loại xe này là “cyclo-pousse”.
Tà lỏn
Cái quần đùi, cái quần soọc mình mặc hàng ngày, ở miền Nam mình hay gọi là quần tà lỏn. Tui nghe bà con kể lại, cái từ này cũng có gốc từ tiếng Pháp. Có người nói nó là “salopette”, nghĩa là quần yếm. Cũng có người nói nó là “talon”, nghĩa là gót chân, vì mặc quần đùi thì lộ gót chân ra. Dù là từ nào đi nữa, thì cái tên tà lỏn nghe nó gần gũi, thiệt thà, giống như cái tính của người miền Tây mình vậy.
Cúp bế
Nguồn gốc: “Poupée” là một loại đồ chơi mô phỏng hình dáng con người.
Hồi nhỏ, mấy cô, mấy chị hay có con búp bê bằng nhựa, bằng vải. Cái từ búp bê “Poupée” là từ tiếng Pháp có nghĩa là búp bê. Bà con mình nghe tiếng “poupée” rồi đọc lại thành búp bê, nghe vừa lạ vừa quen. Cái từ này hổng chỉ để chỉ đồ chơi không đâu, mà còn dùng để khen mấy người con gái xinh xắn, dễ thương, đẹp như búp bê vậy đó. Hổng hiểu sao kiêu riết thành Cúp Bế luôn.
Gạc măng rê
Nhớ hồi xưa, nhà nào mà có cái tủ gỗ để chén bát, thức ăn thì gọi đó là cái gạc măng rê. Tui nghe ông bà già kể lại, cái từ này cũng là tiếng Pháp. “Garde” nghĩa là canh gác, giữ gìn, còn “manger” là thức ăn. Ghép lại là “garde-manger” – cái chỗ để giữ thức ăn. Hồi đó làm gì có tủ lạnh, nhà nào cũng có cái gạc măng rê, để chén bát, đồ ăn vô đó.
Những chiếc tủ này thường làm bằng gỗ, có lưới hoặc song thưa ở các mặt để thoáng khí, giúp bảo quản thực phẩm và bát đĩa khỏi côn trùng như ruồi, gián, kiến. Bốn chân tủ thường được đặt vào các bát nước để ngăn kiến bò lên. Ngày nay, tủ lạnh và tủ bếp hiện đại đã thay thế “Gạ măng rê” truyền thống, nhưng từ này vẫn được một số người lớn tuổi sử dụng.
Li phăng
Nhà nào khá giả chút, phòng khách có cái ghế dài, vừa ngồi vừa nằm được, thì bà con hay gọi đó là cái li phăng. Cái từ này cũng là tiếng Pháp. “Lit” là giường, còn “divan” là ghế sô-fa dài. Ghép lại “lit-divan” rồi đọc trại riết thành li phăng. Giờ người ta gọi là sô-fa, sa lông hết rồi, nhưng cái từ li phăng vẫn còn trong lời nói của mấy ông chú, bà cô lớn tuổi.
Ví dụ: Thay vì nói “nghỉ trên ghế sô-fa”, người ta có thể nói “nằm trên cái li phăng”. Nhiều người đọc trại thành luôn là Li-quăng
Xà Bần
Từ này thì không phải tiếng Tây đâu, mà là tiếng Quảng Đông. Trong tiếng Quảng Đông có từ 沙𤞑 (sa bân / sa bần), nghĩa là “cát vụn, sỏi đá, phế liệu xây dựng”.
“Xà” = âm Hán Việt của 沙 (sa = cát).
“Bần” = âm Việt hoá của chữ 𤞑 (bân/bần), nghĩa là mảnh vụn, tạp nhạp.
Người Hoa Nam bộ mang qua, bà con mình xài theo, riết thành quen. Hay cái nữa là từ này còn được dùng để chỉ mấy món ăn “tạp nhạp”, gom lại đủ thứ, giống như món lẩu xà bần, chè xà bần vậy đó. Nhưng đừng có lộn nó với “Tạp pín lù” nhe
Cắc củm
Cái từ cắc củm nghe thiệt là dễ thương, dùng để chỉ mấy người sống tằn tiện, cực khổ, chắt chiu từng chút. Cái từ này cũng có gốc từ tiếng Quảng Đông/Triều Châu, “kak-kím” nghĩa là hà tiện, keo kiệt. Bà con mình đọc trại lại thành cắc củm. Nghe cái từ này là thấy cái sự hiền lành, chịu thương chịu khó của người miền Tây mình rồi.
格緊 (kak-kím / cắc-kỉm), nghĩa là hà tiện, keo kiệt, bo bo giữ chặt tiền. Nói nôm na: “Cắc củm” = sống cần kiệm, kham khổ, bo bo dành dụm từng chút một.
Cà rá
Cà rá là cách bà con mình gọi chiếc nhẫn, thường là nhẫn có đính kim cương hoặc đá quý. Cái từ này có gốc từ tiếng Bồ Đào Nha “carrat” hoặc tiếng Pháp “carat”, là đơn vị đo kim cương. Bà con mình đọc riết thành cà rá.
Từ này thường được sử dụng trong các ngữ cảnh thân mật, suồng sã hơn so với các thuật ngữ chuyên môn về trang sức.
Hồi xưa, đám cưới mà có đeo cà rá thì thiệt là sang trọng, quý phái rồi.
Vậy đó bà con, ngôn ngữ của mình đâu chỉ có mỗi tiếng Việt. Nó còn pha trộn, vay mượn từ nhiều nơi, nhiều xứ, để rồi làm cho tiếng Việt mình thêm phần phong phú, thú vị. Mấy từ đó, ban đầu có thể là tiếng lạ, nhưng qua miệng người miền Tây mình, nó thành thân thuộc, dung dị. Mấy từ này không chỉ là lời nói, mà còn là một phần ký ức của một thời, một phần văn hóa của cái xứ mình.
Xem thêm ở đây: https://gocong.org/docs-category/phuong-ngu/
Ý Nhiên






Bình luận