Khi vét đào Kinh Salicetti nội thị Pháp cho bắc 3 cây cầu sắt trên 3 trục lộ Nam Bắc.
CẦU HUYỆN
Bây giờ, ai là người Gò Công cũng đều nghe đến Cầu Huyện, có thể cũng biết chỗ Cầu Huyện nhưng mấy ai thấy dáng dấp chiếc cầu sắt nầy. Cây cầu nằm trên con đường ven phía Đông chợ Gò Công, từ Miếu Bà phía Nam ngược lên qua Ao Trường đua về các làng miền Đông Bắc: qua cầu gần 100 thước nếu đi thẳng thì về các làng Tân Niên Đông, Tân Niên Tây v.v. , nếu rẽ phải sẽ về Bình Ân và Tân Bình Điền, nếu rẽ trái thì vòng về Sơn Qui, làng Tân niên Trung. Chíêc cầu nầy có trụ sắt, thành cầu thẳng băng, mặt cầu lót ván rộng 4 mét. Cầu không cần mống cao. Xe ngựa, xe bò, xe kéo đi qua gần như bình thường không cố sức nhiều. Chiếc cầu chắc có tên Tây, nhưng dân ta kêu là Cầu Huyện.
Chiếc cầu đầu đời khi tôi có ý thức thấy và nhớ được là Cầu Huyện nầy. Sau nầy, đầu năm 1948 ngay sáng sớm hôm sau của đêm nó bị đốt cháy, tôi đã đứng cách khung sườn khét lẹt của cầu, nhìn vài miếng ván cầu cháy dở rơi xuống dòng nước vô tình đang chảy, tôi không nhớ tôi có buồn hay sao sao nữa! Nó là chiếc cầu hằng ngày sáng qua chiều qua, bằng đôi chân trần tôi đi học. Cầu Huyện bị đốt, không bắc cầu lại mà đặt ống cống đắp đập nối thông hai đầu lộ. Giờ đã bỏ cả cống mười năm rồi, dân vẫn gọi là Cầu Huyện.
CẦU PHỦ (..1943) – CẦU TÂY BAN NHA (1967 – 1998)
Từ Cầu Huyện, ngược đường vô chợ cặp mé sông (lúc đó ai cũng gọi là sông) cũng có hơi quẹo sẽ gặp chiếc cầu sắt thứ nhì. Cầu nhỏ quá chỉ dành cho xe kéo và người đi bộ băng qua (trước các năm 1940). Bên bờ Bắc của Kinh thấy đường đến ngôi Nhà thờ đồ sộ tháp chuông cao. Sau nầy khi đi học xa về thăm nhà, qua đò Mỹ Lợi một đổi, thấy được tháp thánh giá nhà thờ biết là gần tới “nhà”, rồi thì nôn nao mong mau tới nếu vừa đỗ đạt, còn rầu vì tâm sự “Bùi Kiệm” ngổn ngang, không biết phải thưa cha thưa mẹ làm sao vì “con thi rớt mới về”! Tôi nhớ má tôi an ủi tôi là học tài thi phận, má hát:
“Thưa cha con thi rớt mới trở lụn về,
Bùi Ông mắng nhiếc, nhúng trề,
Trách phận mầy sao ham bề vui chơi.
Kiệm rằng …tài bất thắng thời…”
Bên Nam là đầu đường gọi là Lộ Me. Tôi chưa bao giờ đặt chân lên chiếc cầu nầy và có người gọi là Cầu Phủ. Sau nầy nó mất đi, đoạn kinh nầy không nối được đôi bờ gần 30 năm. Rồi sau nầy năm 1967 có cây cầu cây mới vững chắc tên gọi không tây không ta mà là Cầu Tây Ban Nha.
Năm cầu Tây Ban Nha xuất hiện tôi cũng biết, rồi khi miếng ván cầu cuối cùng của chiếc cầu cây cũ cho rơi xuống vũng nước còn lại tôi cũng thấy vì tôi có nhà ở khu nầy để đi dạy. Lúc đó có ai hỏi tôi ở đâu, tôi đáp ở khu Cầu Tây Ban Nha. Xin nói mau vì tác giả Huỳnh Minh trong quyển “Gò Công xưa” viết: gọi là cầu Tây Ban Nha vì do một toán lính Tây Ban Nha cất. Không có lính Tây Ban Nha nào tham chiến thời chống Mỹ cả, chỉ có toán y bác sĩ thiện nguyện người Tây Ban Nha đến Bịnh viện Gò Công từ năm 1966 để giúp về y tế. Họ được bố trí ở toà nhà là Thị đội bây giờ. Đầu năm 1967, cầu cây mới làm xong, rộng 1,4 thước đủ xe lam ba bánh qua được và được đặt tên là cầu Tây Ban Nha để kỷ niệm công việc thiện nguyện của họ. Có một tấm bản ghi tên cầu bằng chữ Tây Ban Nha ‘ PUENTE ESPANA’ ở đầu cầu bên Nhà thờ. Hôm khánh thành, vài người trong phái đoàn họ đứng chụp hình bên tấm bảng cầu và nói họ sẽ gởi về quê nhà. Họ nói tiếng Pháp. Đầu năm 1973 họ ra đi…
Mới đây tháng 07 – 2006, tình cờ tôi thấy một trang Web nói về nước Tây Ban Nha hồi năm 1965 có giúp Chính quyền cũ Sài Gòn về Y tế tại Gò Công theo Chương trình Viện trợ phi Quân sự như sau:
SPAIN – NONMILITARY AID TO VIET NAM
In December 1965 the government of Spain announced that as a result of a request by the government of Vietnam, it would provide a medical mission of twelve to fourteen men to the Republic of Vietnam. Negotiations over support arrangements were made in co-ordination with the U.S. Agency for International Development and the Vietnamese Minister of Health. The major points of this arrangement were that the government of Spain would pay the team’s salaries and allowance, plus fifty dollars a month per member for subsistence, and the United States would pay all other costs.
It was decided to locate the team of four doctors, one quartermaster, a captain, and seven nurses in Go Cong Province in the IV Corps Tactical Zone. The team arrived in Vietnam on 8 September and on 10 September it replaced the US Military Provincial Health ***istance Program team at the province hospital in Go Cong.
Xin dịch ra tiếng Việt:
TÂY BAN NHA – VIỆN TRỢ PHI QUÂN SỰ CHO VIỆT NAM:
Tháng 12 năm 1965, Chính Phủ Tây Ban Nha loan báo rằng do kết quả thảo luận về yêu cầu của CHVN, nước TBN sẽ gởi một Đoàn y tế gồm 12 đến 14 nhân viên đến CHVN. Các cuộc thảo luận về hoạch định viện trợ được thực hiện kết hợp với AID của Mỷ và bộ Y tế Việt Nam. Những điểm chính của cuộc hoạch định nầy là: Chính phủ Tây Ban Nha sẽ trả lương và phụ cấp cho Đoàn Y tế cộng thêm 50 đô la mỗi tháng cho từng thành viên để sinh hoạt và Mỹ sẽ trả mọi chi phí khác.
Quyết định là cử Đoàn y tế với 4 bác sĩ, một trưởng đoàn, một đại uý và 7 y tá phục vụ tại Tỉnh Gò Công thuộc Vùng IV Chiến thuật. Toán Y tế sẽ đến Việt Nam vào ngày 8 tháng 9 – 1966 và ngày 10 tháng 9 thay thế Đoàn Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ về Y tế Tỉnh tại Bịnh viện Tỉnh Gò Công.
Vậy mọi chi tiết tôi viết về chiếc cầu Tây Ban Nha là chính xác !
CẦU QUAN
Cầu Quan là chíếc cầu quan trọng nối liền hai bộ phận Nam Bắc của nội thị Gò Công. Nó ở ngay một vị trí mà tới ngày nay không ai tưởng rằng chỗ nầy phải có cây cầu và là cây cầu quan trọng và đẹp nhất thời bấy giờ.
Lùi về bên mặt Nam phần dân cư nó nối một con đường lúc đó gần như là con đường ven. Từ Miếu Bà theo con đường đi lên phía Bắc bên trái đã có nhà phố, nhà máy xay lúa, nhưng bên phải còn là ruộng cho tới đầu các năm 1950, các thầy giáo mới đến cất nhà ở. Nhớ lại, xưa sau khi tên Huỳnh công Tấn chết (1877), gia đình có cất ngôi chùa gọi là chùa ông để thờ Quan Công nhưng cũng để thờ Lãnh Binh Tấn. Cổng chánh chùa ngó mặt qua phía sau Nhà Bà Phước. Trên 2 cột trụ có 2 câu đối bằng chữ Hán “ Độc chúc Tào vô dạ” “Đơn đao Hán hữu thiên”. Đây là 2 câu mô tả tính cách và hành động anh hùng của Quan Công, để mọi người lầm tưởng đây là chùa thờ Quan Thánh. Trong chùa có bài vị của Tấn mãi sau nầy vẫn còn. Vị trí bây giờ là khu Nhà trẻ Sơn Ca và trường học. Từ chùa qua con đường là khu Cô Nhi viện của các bà sơ người Pháp “Sœurs de Saint Paul”, dân quen gọi là Nhà Bà Phước nuôi trẻ mồ côi….Nay (2004) ngôi lầu có ghi hàng chữ Pháp trên vẫn còn trong khuôn viên trường Mẩu giáo Bình Minh.
Đối ngang qua đường Nhà Bà Phước là ngôi lầu Bungalow một loại nhà quan-cư như câu lạc bộ thời Pháp có sân tennis, năm 1942 thấy có lính Nhựt (lùn) chiếm đóng, chiều tập đánh xáp lá cà trên sân tennis. Các thời sau tòa nhà nầy làm đồn Công an. Nay tòa bungalow bị triệt hạ cất lầu cũng làm đồn Công an.
Xưa (trước 1943) đứng trên đường, giữa Bungalow và nhà Bà Phước là qua đường dọc phía Nam con kinh và qua chiếc cầu sắt là Cầu Quan đó !
Cầu có tên Tây là cầu Albert Sarraut, nhưng dân quen gọi là Cầu Quan. Cũng ngộ dân gọi cây cầu sắt phía Đông là Cầu Huyện, cầu sắt nhỏ giữa đoạn kinh là Cầu Phủ và cây cầu lớn gần chợ nầy là Cầu Quan.
Cầu bắc qua kinh Salicetti, cách vàm của kinh từ Rạch Gò Công lối 300 thước. Cầu không có mống cao dài 30 thước, rộng 5 thước lót ván ngang, thành cầu thẳng băng cao thước rưởi. Đầu thành cầu phía phải bên Nam có cột sắt ***g đèn vừa tầm người. Bên Bắc nhìn qua đầu thành cầu bên phải cũng có cột ***g đèn như thế, đối chéo. Phải chi có 4 trụ đèn thì đẹp biết bao ! Đêm có người đến châm dầu và đốt đèn soi mờ mặt cầu…
Vừa qua Cầu Quan, phía Bắc chừng trên mươi thước là có con đường ngang. Đường nầy chạy từ vàm kinh phía tây qua mặt Nam của Trường Nữ, qua Trường Nam, hai trường nầy dân gọi chung là Trường Quan, rồi chay dọc theo kinh đến tận đầu phía Bắc Cầu Phủ, quẹo trái theo hướng Bắc nhập vào đường chạy ngang Nhà thờ.
Còn bên chợ qua Cầu Quan chỉ chạy một đoạn ngắn 200 thước là tới đường cắt ngang (giờ đường Nguyễn Văn Côn) và cổng vào dinh Chánh tham biện. Dinh Chánh tham biện cất xong năm 1885 còn Cầu Quan chắc hoàn thành trước hay sau đó. Hoá ra Cầu Quan là nối khu Nam dân cư với toà nhà làm dinh quan Chánh Tham biện. Xe từ Mỹ Tho xuống qua Cầu Quan mà đến ngay dinh nầy thì rất tiện, nhưng đến các cơ sở khác thì phải quẹo trái hoặc phải thật vòng vo. Sau có con đường giữa trường Nam và trường Nữ là trục tiện lợi nhất, nhưng không có cầu nối. Bên khu Nam cũng có con đường đến mé sông. Hai đầu đường ngó nhau qua lòng kinh rộng. Thấy nhau mà phải đi vòng qua Cầu Quan như thế gần suốt 60 năm, đến năm 1943 mới được thông nối, nay (2004) là đường Trần Hưng Đạo. Trở lại con đường qua Cầu Quan đến cổng dinh Tham biện quẹo phải và nhìn thấy sân banh nhỏ (bây giờ là Trường Trung học Gò Công – Trương Định) bên phải, đi tới trước cổng Sân Vận Động Gò Công gặp con đường nhỏ (bây giờ trong khuôn viên trường) chạy nguợc hướng Nam ra gặp đường mé kinh.
Trở lại con đường trước Dinh, qua khuôn viên Dinh là đến Sân vận động bên trái đường có sân đá banh kích thước trung bình, nhưng có khán đài, có rào đúc ngăn cách sân và đường chạy chung quanh trải than đá vụn. Đường chạy đủ rộng nên Tây thường cho đua ngựa vào dịp 14-7 (Quatorze Juillet 1789, ngày phá ngục Bastille), ngày lễ “chánh chung”, Quốc khánh của Pháp hay vào dịp Tết ta. Còn sân banh nhỏ bỏ trống, nhớ năm 1942 gần Tết Tây tổ chức “kermesse” như là hội chợ đấu xảo bây giờ. Hàng đấu xảo là sản vật, nông phẩm của 40 chục làng trong tỉnh đem đến dự thi. Từ cổng sân vận động đi tới bên phải là mặt sau của trại lính “gạc” (Garde civile locale). Trại lính có mặt tiền ngó ra đường nhỏ chạy dọc bờ kinh phía Bắc. Qua trại lính là khuôn viên ngôi nhà dân sự duy nhất của cánh họ Dương Tấn bây giờ vẫn còn, bây giờ giáp trại lính cũ toàn là nhà. Bên trái kế bên sân vận động là khu nhà thờ có ngôi “Thánh đường Sacré Coeur Thánh Tâm”.
Con đường trước nhà thờ có thể đi về các làng Tân Niên Trung … sau khi qua Cầu Sơn Qui. Con đường trước dinh Chánh Tham biện vừa mô tả không sầm uất, chỉ thỉnh thoảng có xe hơi, xe kéo, xe máy (xe đạp) chạy qua và người đi bộ đi đông đúc là khi đến xem các trận đá banh ở sân vận động. Xe ngựa từ hướng Sơn Qui muốn vào chợ, khi tới nhà thờ thì quẹo trái theo đường nhỏ có thời gọi đường Hộ Mưu, vòng qua Cầu Huyện mới vào bến xe ngựa được. Xe hơi từ Sài gòn về chạy theo đường vòng sau dinh Tham biện gọi là Lộ Dương, tới ngỏ tư Nhà Đèn hoặc chạy thẳng rồi ngoẹo trái trước mặt trường Quan rồi qua cầu, hoặc tới ngã tư ngoẹo trái đến trước cửa dinh queo phải rồi qua Cầu Quan.
Xe đò nhất là xe ngựa không dám bén mảng đoạn đường từ ngã tư nhà đèn đi thẳng để quẹo qua trường Nam vì kế bên Kho Bạc (bây giờ vẫn kho bạc nhưng cất mới) là Bót lính mã tà dân gọi là phú lích. Thuở ấy có một ông cò Tây (commissaire de police) hung dữ dân gọi là Cò Le Fort, cầm roi, đội nón cối trắng đi rểu rểu. Xe ngựa chạy bậy, đậu không đúng chỗ sẽ bị phú lích dán một “ề” cò (tem) phạt ở bình phuông xe là kể như tiền chở khách ngày hôm đó không còn đủ mua cỏ lúa cho ngựa!
Phan Thanh Sắc