Bóng hình làng Thành Phố

Năm 1867 là năm Pháp chiếm hết 6 tỉnh Nam Kỳ rồi chia thành 20 vùng Tham biện. Huyện Tân Hòa đổi thành Vùng Tham biện Gò công.

Viên Chánh Tham biện đầu tiên của Sở Tham biện Gò Công (Inspection de Gò Công) là Hải quân Trung Úy Guys cho xây thành lính tập bên bờ Bắc Rạch Cửa Khâu (*), dân gọi là thành “săng đá” (Fort des soldats) từ năm 1868. Sau nầy thành “săng đá” được chuyển thành trường dạy chữ Quốc ngữ và chữ Pháp đầu tiên của cả vùng, tồn tại trên trăm năm (đến năm 1999 thì phá xây Trường Tiểu học Phường 1). Chính viên sĩ quan nầy cũng là công trình sư của tỉnh lỵ Gò Công ban đầu. Còn Rạch Cửa Khâu lúc đó là con rạch thiên nhiên chia thôn Thuận Ngãi là lỵ sở huyện Tân Hoà bên Nam và thôn Thuận Tắc bên Bắc.

Năm ấy Pháp cho nhập 2 thôn thành làng lớn để đặt tỉnh lỵ và làng Thành Phố (Commune de Thanh Pho) ra đời. Mặc dù không có tài liệu ghi lại công trình xây dựng tỉnh lỵ Gò Công của Pháp nhưng nếu ta nhìn hiện trạng tỉnh lỵ Gò Công từ năm 1943 trở về trước và nghiên cứu sách xưa ghi ký ức vùng nầy ta sẽ thấy: Con Rạch Cửa Khâu và trục chợ thôn Thuận Ngãi cũ làm 2 trục chánh cho quy hoạch làng Thành Phố. Đất đô hộ nhưng Tây cũng muốn Thành phố phải có dáng dấp Châu Âu, nhất là mẩu quốc Pháp. Phải có sông, có cầu! Chuyện bên lề là sông mà chảy qua thành phố, có cầu bắc ngang qua là vẽ đẹp của biết bao thành phố Châu Âu. Paris đẹp cũng nhờ có dòng sông Seine, 32 chiếc cầu bắc qua và một cù lao trên sông nổi tiếng “Ile de France” với Nhà thờ Đức Bà mà truyền thuyết dệt thành chuyện bất hủ của Victor Hugo “Notre Dame de Paris”. “Thằng gù Nhà thờ Đức Bà”.

Rạch Cửa Khâu được nạo vét đầu tiên năm 1870, qui hoạch thành kinh. Kinh đào rộng và sâu, bắt đầu từ vàm lấy mối nước Rạch Gò Công còn gọi là sông Long Chiến (Long Chiến gọi trại từ Long Chánh). Kinh chảy qua nội thị, được ba cái cầu sắt bắc qua nối hai bờ, rồi vượt đầm lầy ở ngoại ô và vùng lân cận phía đông, biến đầm lầy, đất biền thành ruộng cấy một mùa lúa rẩy, rồi mùa lúa đồng. Kinh băng qua làng Hoà Nghị, vài chục năm sau tại đây bên bờ Nam nó làm bạn với một ngôi chùa lớn đẹp do Bà huyện Ngươn xây cất gọi là Long Thoàn Bửu Tự cùng với cây dầu cao trên năm mươi thước. Cây dầu cao cho tới bây giờ vẫn là cái mốc Giồng Nâu. Rồi kinh qua cây cầu sắt số 4 tại Hoà Nghị, chạy thẳng qua cây cầu sắt thứ 5 tại chợ làng Tăng Hoà và thoát ra sông Cửa Tiểu tại vàm của kinh.

Chợ Tăng Hoà được dân chúng gọi là chợ Cửa Khâu từ đó để nhớ con rạch xưa. Kinh mới thay rạch và thay tên trên bản đồ vùng Gò Công là Kinh Salicetti (l’Arroyo de Salicetti)**. Có tên nầy từ lối sau năm 1872. Tên là Tây đặt để kỷ niệm viên Chánh tham biện Vĩnh Long người Pháp đầu tiên, Salicetti bị nghĩa quân phục kích giết chết tại Vũng Liêm năm 1872. Sau nầy 1940 Tây cho đào thêm một kinh nữa theo con rạch từ Vĩnh Lợi tới rạch sông Long Chiến thì chạy thẳng ở mặt Nam nội thị qua cây Cầu Đúc lên Yên luông Đông và Cầu Đúc Lò Heo đi Tăng Hoà rồi gặp Kinh Salicetti, lại tách băng qua Xóm Dinh, Xóm Vạn Thắng bằng cây Cầu Đúc nữa. Nó hướng về Đông đến làng Bình Ân qua cầu sắt thẳng ra làng Tân Bình Điền qua cầu cây xưa gọi Cầu Khỉ, giờ có cây cầu mới gọi là Cầu Tam Bản (thế cầu Tam Bản xưa ở Hộ Bắc không còn) rồi thoát ra biển ở Cửa Rạch Bùn.

Chính đoạn kinh thứ nhì có 2 cái cầu đúc chạy qua miền Nam khu nội thị đã khiến khai tử đoạn Kinh Salicetti qua chợ và 3 cây cầu sắt sau nầy. Cây cầu thứ nhất và thứ nhì dở bỏ năm 1943, cây cầu thứ 3 bị đốt năm 1948. Đoạn kinh Salicetti trong nội thị cuối cùng là chiếc “piscine” sau thành ao tù bị lấp.
_______________________________________________________________________________

(*) Rạch Cửa Khâu trong Tiểu Giáo trình địa lý Nam kỳ của P. Trương Vĩnh Ký xuất bản năm 1885 là con rạch chảy ngang Gò Công, tên Hán Việt là Khâu Giang

(**) Theo truyền thống tỉnh Vĩnh Long, Salicetti chết là do Thủ lảnh nghĩa quân địa phương Lê Cẩn lập kế giết được :

Ông Lê Cẩn – chưa rõ quê quán – nguyên là một võ quan của triều đình Huế, làm đến chức Đề đốc. Khi nói về ông, sử sách thường ghi là Đốc binh Lê Cẩn.

Đốc binh Lê Cẩn vốn là người trung nghĩa, có khí phách, chủ trương đánh giặc Pháp bằng vũ lực. Chiến công vang dội của ông được lưu truyền là cuộc tiến công vào trụ sở địch quận Vũng Liêm và trận phục kích Cầu Vông cũng thuộc Vũng Liêm ngày nay.

Cuộc tiến công vào trụ sở quận Vũng Liêm, tại đó lực lượng địch gồm dân binh người Việt và người Khmer do tên Thực, chủ quận Vũng Liêm cầm đầu. Bọn tay sai này rất trung thành với quan thầy Pháp, cũng đàn áp nhân dân, tước đoạt của cải đồng bào, được xếp vào loại ác ôn hạng “nặng”. Phải trừng trị chúng để làm gương cho đồng bọn khác. Được sự tham mưu góp sức của cụ Phó Mai, Đốc binh Lê Cẩn cùng Nguyễn Giao đã tổ chức tấn công chớp nhoáng vào dinh quận. Tên chủ quận Thực bị nghĩa quân giết cùng với 6 lính lệ khác.

Cuộc tiến công này khiến bọn thực dân Pháp và tay sai hoảng sợ. Chúng bèn sai Tôn Thọ Tường, tên Việt gian thâm hiểm về Vũng Liêm để đối phó với tình thế. Tôn Thọ Tường một mặt ra sức vỗ về, chiêu dụ dân chúng, mặt khác dùng mồi bổng lộc để thuyết phục nghĩa quân, trước hết là lãnh tụ Lê Cẩn ra hàng. Nhưng ông và nghĩa quân nhất quyết bác bỏ, không chịu sa vào âm mưu giặc. Còn hơn thế nữa, đó là trận phục kích thắng lợi của nghĩa quân tại Cầu Vông năm 1872.

Trong việc đàn áp cuộc khởi nghĩa của Đốc binh Lê Cẩn, ngoài Tôn Thọ Tường còn có tên Tham biện người Pháp, chủ tỉnh Vĩnh Long Salicetty chỉ huy. Chúng vừa đánh vừa kêu gọi nghĩa quân đầu hàng. Tương kế tựu kế, ông nhận lời ra hàng và hẹn với chúng đàm phán cụ thể tại Cầu Vông. Thực chất ông đã trá hàng, tạo cơ hội đưa chúng vào đất hiểm để tiêu diệt.

Theo tài liệu cũ thì mặc dù Tôn Thọ Tường đã lưu ý can ngăn nhưng Bồi Xê (tên tục của Salicetty) vẫn chủ quan,

nghênh ngang đến Cầu Vông để nhận sự “đầu hàng” của Lê Cẩn. Đúng như dự kiến, cuộc phục kích nổ ra khi Lê Cẩn bất thần tiến công vào Salicety còn Nguyễn Giao thì đánh tập hậu vào vào toán quân đi theo. Theo “Vĩnh Long xưa và nay” thì “Đốc binh Lê Cẩn đã cùng với Salicetty ôm vật nhau lăn xuống sông cùng chết”. Thi thể ông đã được Nguyễn Giao và nghĩa quân đưa về, làm lễ tang điệu và an táng chu đáo. Nhưng phần mộ ông hiện nay chưa xác định ở đâu, một phần do cần giữ bí mật nơi an nghỉ của người lãnh tụ nghĩa quân, mặt khác để tránh sự trả thù của giặc. Còn Bồi Xê thì đầu bị bêu giữa đồng Láng Thé. Sau trận này, nghĩa quân tiếp tục tiến công vào khu vực Trà Vinh và làm chủ cả vùng này một thời gian.

Thực dân Pháp thấy tình hình không ổn nên quyết tâm đàn áp cuộc khởi nghĩa. Chúng huy động nhiều lực lượng, tập trung các tên tai sai đắc lực như Đốc phủ Cái Bè Trần Bá Lộc và Huỳnh Văn Tấn (Đội Tấn). Chúng đã đàn áp nghĩa quân rất khốc liệt. Có thể nói đây là cuộc đàn áp đẫm máu nhất của thực dân Pháp trong các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta sau khi Pháp thôn tính 6 tỉnh Nam kỳ. Nhưng cuộc khởi nghĩa này vẫn kéo dài hoạt động trong vùng Trà Vinh cho đến khi ông Nguyễn Giao – bạn chiến đấu của Lê Cẩn hy sinh vì bị giặc phục kích trên đường vượt sông Cổ Chiên sang Bến Tre tiếp tục chiến đấu. Đến đây, cuộc khởi nghĩa do Đốc binh Lê Cẩn lãnh đạo mới thật sự chấm dứt.

Tấm gương mưu trí, dũng cảm và hy sinh vì nghĩa lớn của Đốc binh Lê Cẩn đã để lại trong lòng dân Vũng Liêm niềm thương tiếc vô hạn. (Ngay thời Pháp thống trị chúng đã cho xây một trụ đá hàm ý ghi nhớ “công lao” của Salicetty và bè lũ !). Ngày nay, cũng tại đây nhân dân Vũng Liêm đã xây một bia tưởng niệm để luôn luôn tưởng nhớ tấm gương anh dũng bất khuất của các nghĩa sĩ Cầu Vong. Ở ấp Đầu Giồng xã Bình Phú, huyện Càng Long vào ngày mồng 3 tết âm lịch hàng năm có ngày giỗ hội. Đó cũng là biểu hiện sự tưởng nhớ các nghĩa sĩ vì nước bỏ mình. Tương truyền khoảng 200 người bị giặc đưa về đây hành hạ, giết chết và vùi xác nơi đây.

Để ghi nhớ công lao của tiền nhân, tưởng nhớ tinh thần yêu nước quật cường của nghĩa sĩ, của những vị anh hùng, năm 2005 ngành Văn hóa Thông tin Vĩnh Long đã xây dựng tượng đài Đốc binh Lê Cẩn – Nguyễn Giao tại ngã ba An Nhơn, thị trấn Vũng Liêm.

Phan Thanh Sắc

Phản hồi