Việc huy động lực lượng để đánh Gò-công và bổ nhậm các sĩ quan để đối phó với ông, tường thuật sau đây:
Lấy xong Saigon ngày 18-2-1859, Đô-đốc Charner thấy cần phải đánh lấy Định-tường để giữ an phòng tuyến và để mở rộng khu vực hoạt động giới hạn bởi các con sông Đồng-nai, Soi-rạp và Vàm-cỏ, vì dân quân ta từ đấy phát xuất đánh lẻ tẻ khắp vùng chiếm đóng của Pháp.
Lúc bấy giờ quân Pháp mở hai mặt thủy bộ, một đội thuyền kèm theo bộ binh hành quân thăm dò tiến xuống Tân-an, Bến-lức rồi đổ bộ xuống Trung-lương tiến đánh Định-tường, còn bộ đội thuyền kia do Đô-đốc Page chỉ huy, vượt qua cửa Tiểu và xuất hiện trên sông lớn phía Tây Định- tường. Thế là địch quân với lực-lượng hùng-hậu và võ-khí tối-tân hơn, đã vượt lên trên thi hài của quan quân ta và chiếm cứ Định-tường ngày 12-4-1861, cùng với sự chiếm cứ vùng bên này bờ sông Cửu-long và Soi-rạp. Tuy nhiên, cuộc hành-quân này đã làm cho Pháp quân bị thiệt hại nặng hơn bao giờ hết về nhân mạng, vì mưa giông, bùn lầy, nước độc của miền nhiệt-đới, thêm vào đó quân địch phải chiến đấu liên miên đêm ngày với một kẻ thù lúc ẩn lúc hiện.
Tuy chiếm Định-tường Đô-đốc Charner còn nể nang Nam-triều, để quận Gò-công (Tân-hòa) ra ngoài, chỉ đóng đồn binh thôi vì nơi đây là gốc gác họ ngoại của nhà vua. Bởi vậy trong một thời gian khá lâu, Gò-công lúc ấy đã là vùng phì-nhiêu thạnh mậu, dân-cư đông đảo, là nơi qui tụ của nhiều anh hùng nghĩa-sĩ nặng lòng yêu nước và nghĩa quân vương quyết chống lại sự thống trị của ngoại bang, không lùi bước trước võ-khí tối tân của quân địch. Chính các tác giả của quyển Histoire militaire de I’Indochine (Lịch sử quân sự ở Đông-Dương) trang 38, cũng đã viết là sự thất bại của quân Triều-đình không có chút ảnh-hưởng gì đối với phong trào nổi dậy chống Pháp trên phần đất bị chiếm, và Pallu de la Barrière trong quyển Histoire de l’expédition de la Cochinchine en 1861 (Lịch sử cuộc viễn chinh ở Nam-Kỳ năm 1861) cũng ghi là trung-tâm kháng chiến ở cùng khắp mọi nơi và tiểu phân đến vô cùng vô tận gần như mỗi người Việt-nam, mỗi người nông dân cột bó lúa là một trung tâm kháng chiến vậy.

Trong tinh-thần đấu tranh ấy, nghĩa quân đã mấy lần tìm đến gây trận thư hùng với quân Pháp. Hai tháng sau khi Định-tường thất thủ, ngày 22-6-1861, lúc 5 giờ sáng, sáu trăm nghĩa-quân do Huyện-Thoại chỉ huy kéo tới tấn công Gò-công.
Ông Huyện-Thoại tên thật là Đỗ-Trinh-Thoại (xem Việt- sử Tân biên V, 192), là người trước đây đã trấn nhậm huyện này. Ông điều động dân quân tiến vào, tưởng có thể đánh úp bất ngờ, chẳng may bị phát giác. Vừa tiến vào tới chợ thì bị lính pháo thủ hải-quân Pháp cầm đầu bởi Trung-úy hải- quân Paulin Vial chận lại, và mới giao tranh thì loạt súng đầu của địch đã hạ 14 nghĩa-quân, trong số có Huyện-Thoại và phó-tướng của ông chết liền tại chỗ. Nhưng viên sĩ-quan hải-quân của địch cũng bị thương nặng vì hai mũi giáo, may nhờ có tên lính thủy Bodiez hy sinh dùng thân che chở cho, không thì đã chết rồi. Nghĩa-quân ta mất chủ tướng như rắn mất đầu, số còn sống sót thoát về chiến khu chờ cơ hội phục hận.
Huyện-Thoại, một văn-quan mà đã chết như võ-tướng ! Tinh thần nho-sĩ không nhường tinh-thần võ sĩ đạo của con cháu xứ Mặt Trời vậy ! Huyện-Thoại đã đền nợ núi sông, nhưng ngọn đuốc kháng Pháp do ông đốt sáng lên đã cháy lan và sáng chói mãi muôn đời trên đất Việt.
ANH HÙNG TRƯƠNG-CÔNG-ĐỊNH DỰNG CỜ KHÁNG PHÁP
Người đứng lên tiếp tục cuộc đấu tranh của Huyện-Thoại ở Gò-công, là vị anh hùng Trương-công-Định. Ông tên là Trương-Định, dân chúng đặt thêm chữ Công để tỏ lòng kính mến, và người đương thời gọi là Quan-Định vì trước kia ông từng cai-quản một trung đoàn quân Đồn-điền là quân do Nguyễn-tri-Phương, Kinh-lược sứ Gia-Định sau khi Trương- minh-Giảng mất, theo lệnh vua tổ chức diệt trừ các du-đảng phá làng xóm mới lập nên. Các người giàu có hay có thế lực nếu tham gia thì được phong chức Quản hay Đội, một khi tụ họp được một số người để cày cấy ruộng hoang. Chức Quản chỉ-huy 500 người và chức Đội 50 người. Họ được cấp ruộng chưa khai phá và họ được miễn thuế trong một vài năm. Trong thời chiến họ đi đánh giặc, trong thời bình họ được miễn thuế thân và quân dịch và được phái đi khai hoang lập ấp, biến miền hoang vu thành vườn ruộng phì nhiêu.
Con một gia đình giàu có quê ở Quảng-Nam, cha là Lãnh-binh Trương-Cầm, ông sinh năm Canh-Thìn, Minh- Mạng nguyên niên năm 1860 dương lịch. Ông cư ngụ tại một Tổng phía Tây-Nam Gò-công, và đã chiêu tụ được khá đông đảo nghĩa quân, song cánh quân này không tham dự trận đánh ngày 22-6 vì được đưa đến mặt trận ngày hôm sau.
Trước khi rút về kháng chiến tại Gò-công, ông đã từng cầm đầu một đội chí nguyện quân đánh với Pháp quân tại đồn Kỳ-hòa khiến ông được nổi tiếng. Legrand de la Liraye nói là các đồn bót của ông rất vững chắc và nếu chỉ-huy-
trưởng Tôn-Thất-Hiệp chịu để cho ông nhiều sáng kiến hơn thì có thể quân Pháp bị thiệt hại nặng-nề, thất bại nữa là đằng khác. Chính ông đã phục kích Đại-úy Barbé đêm 7-12- 1860 tại góc đường Trần-Quý-Cáp – Lê-Quí-Đôn ngày nay, trước mặt chùa Khải-Tường (Pagode Barbé) mà người Pháp đã phá hủy sau trận phục kích ấy. Pháp quân càng khiếp sợ ông nhứt là sau vụ ông bắt cóc và giết tên bá-hộ Huy, một tay giàu có theo quân Pháp dựa thế bốc-lột dân lành. Tên Việt-gian nầy nịnh bợ quan thầy đàn áp đồng bào, điềm chỉ những nhà ái-quốc nên được quan thầy tin yêu đưa lên làm Cai-tổng. Bá-hộ Huy rêu-rao quyết tâm bắt Quản-Định nạp cho quân Pháp, mặc dầu ngày trước ông với hắn là bạn thâm-giao. Tuy nằm trên bạc tiền và có quyền thế hắn vẫn nơm nớp lo sợ khó thoát chết nên dọn nhà và cơ-sở về ở Đồng-sơn, gần sự che chở của một chiến-hạm Pháp. Nhưng khi y đưa kẻ ở thân-tín mang thư điềm-chỉ chỗ ở của Trương-công-Định thì người này lại đưa cho ông. Thế là Trương-công-Định liền đến Đồng-sơn, thừa bóng đêm bắt kẻ thù mang đi, nhưng vì bị Pháp quân theo sát quá nên đã chặt đầu bá-hộ Huy bỏ xác lại trên lộ trước khi thoát qua một cánh ruộng.
Sự gan dạ này khiến uy thế Trương-Công-Định ngày càng tăng. Ông được sự ủng-hộ của thân-nhân họ Phạm, dòng dõi bên Ngoại vua Tự-Đức, và của các quan triều Nguyễn với gia-quyến họ vốn thù ghét và không hiệp tác với Pháp quân xâm lược. Tuy nhiên, ông phải đương đầu một cách thẳng tay, đôi khi tàn bạo với bọn cường-hào, với phường vô sĩ tham lợi chạy theo kẻ mạnh, trong số đó có
các điền-chủ và thân-nhân của các kẻ bị triều-đình Huế xử tử trong cuộc nổi loạn năm 1831 ; các người này thù ghét triều-đình và nhà cầm-quyền của triều-đình.
Vào khoảng này, phía người Pháp Đố-đốc Bonard thực thi một chánh-sách thực-dân khôn-ngoan : dưới sự kiểm- soát của các sĩ-quan Pháp, họ dùng người Việt trực-tiếp cai- trị người Việt, một chánh-sách mà họ mong dân ta có cảm- tưởng lầm-lạc là mình được tự-trị, nhưng thực ra đã vô-ích và có hại cho việc cai-trị, vì các quan Phủ Huyện không thể có uy-tín và quyền-hành đối với dân-chúng, liền sau khi đất nước họ bị thôn-tính. Chính người Pháp cũng công nhận điều này.
Tin chắc là các chức việc bản-xứ đủ để kiểm-soát dân- chúng không cho nổi dậy, Đô-đốc Bonard ra lệnh rút quân ở các đồn bót và một vài nơi khác. Ngày 1-3-1862 quân Pháp rút khỏi đồn Gò-công. Đô-đốc Bonard ra lịnh rút các sĩ-quan cai-trị quận Tân-hòa, Cần-giuộc và Tân-an.
Chánh-sách của Bonard để thu phục dân tâm tuy có chỗ hay nhưng cũng có điều bất-lợi : bỏ những vùng hành- chánh rút quân đi, Pháp bỏ lại đám dân trước đây theo họ đến cất nhà sanh-cơ lập-nghiệp gần bên đồn Pháp để được che-chở. Nhứt là ở Gò-công, khi quân đội Pháp rút đi, đám người theo Pháp không còn được sự che-chở phải tìm thế an-toàn. Trong số lối 600 dân này có 460 người xuống ghe đi lên Sài gòn và ở lại đây gần thành phố cho tới năm 1863 khi mọi sự đã yên mới trở về quê cũ.
Dịp này, nghĩa-quân của Trương-Công-Định, nhân sự rút đi của quân Pháp, đã củng-cố lại hàng ngũ, đào hầm đấp lũy xây dựng một đồn binh kiên-cố. Từ đấy nghĩa-quân đã hoàn-toàn làm chủ tình thế, được dân chúng ủng-hộ, họ tự- do lui tới các làng, kêu gọi nhân dân hiệp-tác, thu-thuế, tổ- chức thêm nhiều đội ngũ chờ ngày chống giặc và loan tin quân Pháp sẽ rút về hết.
Khoảng tháng 5 năm 1862, có tin đồn nhà vua đã băng hà, Nam-triều với Pháp đã ký hoà-ước, nhà cầm-quyền hai nước phát lời kêu gọi nghĩa-quân trở về hiệp tác. Mặc dầu phía người Pháp hết sức ve-vãn, phái người khuyến-dụ Trương-công-Định ra hàng, vị anh-hùng kháng-chiến miền Tây tiền-giang vẫn cương-quyết một lòng không chấp nhận ngoại bang đô-hộ, quyết không để cho lợi danh lung lạc. Nhân lúc làm chủ tình-hình ở Gò-công, ông cố tranh thủ thời-gian lo chỉnh tu lực-lượng để đeo đuổi công cuộc kháng Pháp. Ông được cụ Đồ-Chiểu ở Bến-tre làm cố vấn đôn-đốc chỉnh đốn hàng ngũ mộ thêm nghĩa binh, lập đồn cố thủ Gò-công, Trương-Công cho đặt trọng pháo giữ-gìn các kinh rạch giao-thông từ sông cái vào nội-địa vùng ông đóng quân. Từ căn-cứ này, ông chỉ huy đánh phá các tàu binh Pháp thường tới lui dòm ngó.






Bình luận